| Thông báo về việc thả giống tái tạo nguồn lợi thủy sản | Thông báo về việc thả giống tái tạo nguồn lợi thủy sản | | | 27/03/2017 10:00 SA | Đã ban hành | | Thông báo Kết quả quan trắc môi trường (Đợt ngày 24/3/2017) | Thông báo Kết quả quan trắc môi trường (Đợt ngày 24/3/2017) | | 1. Kết quả quan trắc Trong đợt thu có 22/35 mẫu giáp xác phát hiện bị nhiễm bệnh đốm trắng, kết quả cụ thể như sau: STT | Điểm quan trắc
| Chỉ tiêu quan trắc | | | Bệnh Đốm trắng (WSSV) | Độ trong (cm) | pH | Nhiệt độ (0C) | H2S (mg/l) | NH3 (mg/l) | Độ mặn (‰) | DO (mg/l) | I | Huyện Bình Đại | 08/14 mẫu | | | | | | | | 1 | Vàm Vũng Luông | (-) | 20 | 7,9 | 29 | 0,004 | 0,020 | 17 | 5 | 2 | Bến Thủ | (-) | 25 | 7,3 | 29,5 | 0,011 | 0,006 | 12 | 4,5 | 3 | Rạch Thanh niên | (-) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 4 | Rạch 30/4 | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 5 | Kênh Mương Đào | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 6 | Rạch Cống Bể | (-) | 23 | 8,2 | 29 | 0,003 | 0,025 | 20 | 5,5 | 7 | Rạch Bình Trung | + | 18 | 7,5 | 28,5 | 0,009 | 0,007 | 5 | 5 | 8 | Rạch Kinh Ngang | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 9 | Rạch Mây | (-) | 25 | 8,0 | 29,5 | 0,004 | 0,027 | 4 | 4,5 | 10 | Rạch Bình Thắng | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 11 | Rạch Thôn Phát | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 12 | Rạch Bà Mụ | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 13 | Rạch Cả Nhỏ | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 14 | Rạch Sáu Chiếm | (-) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | II | Huyện Ba Tri | 03/09 mẫu | | | | | | | | 1 | Rạch Ba Tri | + | 21 | 7,0 | 30 | 0,030 | 0,004 | 6 | 3,5 | 2 | Rạch Bà Bèo | (-) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 3 | Rạch Bà Hiền | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 4 | Rạch Bắc Kỳ | (-) | 24 | 7,5 | 29,5 | 0,020 | 0,003 | 16 | 4 | 5 | Rạch Đường Tắc | (-) | 25 | 7,5 | 29,5 | 0,020 | 0,002 | 5 | 4 | 6 | Rạch Đường Chùa | (-) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 7 | Rạch Xẻo Rạo | (-) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 8 | Rạch Nò | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 9 | Rạch Rừng giá | (-) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | III | Huyện Thạnh Phú | 11/12 mẫu | | | | | | | | 1 | Vàm Nước Chảy-An Thạnh | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 2 | Cầu Sắt-An Thuận | + | 27 | 7,5 | 29 | 0,023 | 0,004 | 6 | 4,5 | 3 | Bến đò Cầu Ván | (-) | 30 | 7,3 | 29 | 0,004 | 0,003 | 13 | 5 | 4 | Rạch Vàm Rỗng | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 5 | Rạch Khâu Băng | + | 25 | 7,3 | 29 | 0,003 | 0,003 | 12 | 5 | 6 | Rạch Khém Thuyền | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 7 | Bến Cầu Dây - An Điền | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 8 | Rạch An Bường lớn - Mỹ An | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 09 | Rạch Giồng Đậu - An Nhơn | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 10 | Rạch Láng Cháy | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 11 | Rạch Vàm Hồ - Giao Thạnh | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | 12 | Rạch Bến Đò Cây Me - Thạnh Hải | + | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) | (/) |
Ghichú: (-): Mẫu không phát hiện thấy mầm bệnh. +: Mẫu bị nhiễm bệnh. (/): Không phân tích. 2. Nhận xét Qua kết quả quan trắc cho thấy, tỷ lệ mẫu giáp xác tự nhiên phát hiện bị nhiễm bệnh đốm trắng chiếm là 62,85% tương đương với kỳ trước (62,85%). Cụ thể như sau: huyện Bình Đại 57,14% giảm so với kỳ trước (78,57%) và huyện Ba Tri 33,33% giảm so với kỳ trước (55,55%), huyện Thạnh Phú 91,66% tăng so với kỳ trước (50%). Nguồn nước trên các kênh, rạch tự nhiên có các thông số thủy lý, hóa phù hợp cho nuôi tôm biển. Riêng điểm thu mẫu rạch Ba Tri huyện Ba Tri có nồng độ oxy hòa tan (DO) thấp so với ngưỡng cho phép (≥ 4 mg/l). 3. Khuyến cáo Qua kết quả phân tích, bệnh đốm trắng trên các kênh rạch ngoài tự nhiên vẫn còn cao, đặc biệt là huyện Thạnh Phú (91,66%), vì vậy người nuôi tôm cần lưu ý: - Tuyệt đối không được lấy nước trực tiếp vào ao nuôi từ các kênh bị nhiễm bệnh đốm trắng. - Thường xuyên theo dõi kiểm tra sức khỏe tôm nuôi, định kỳ bổ sung các loại khoáng, vitamin, primex,…vào khẩu phần ăn nhằm giúp tăng cường sức đề kháng, ngăn ngừa mầm bệnh xâm nhập cho tôm nuôi. - Áp dụng các biện pháp vệ sinh an toàn ao nuôi; kiểm tra các yếu tố môi trường nước ao nuôi nằm trong ngưỡng thích hợp (pH: 7,5 - 8,5, độ trong 30 - 40cm, độ kiềm 80 - 120 mg/lít). - Khi tôm nuôi có dấu hiệu bị nhiễm bệnh hoặc bị chết bất thường phải khai báo ngay cho Ban quản lý vùng nuôi, nhân viên Thú y xã, Ủy ban nhân dân xã hoặc Trạm chăn nuôi và Thú y, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện để được hướng dẫn cách ly, xử lý dập dịch. Tuyệt đối không xả thải bùn đáy ao, mầm bệnh chưa qua xử lý ra kênh rạch tự nhiên. Ngoài ra, người nuôi tôm có thể theo dõi kết quả này trên Website của Sở Nông nghiệp và PTNT, đài truyền thanh các xã, các cuộc họp BQLVN và kết quả quan trắc kỳ tới vào ngày 11/4/2017. Trên đây là thông báo kết quả quan trắc môi trường ngày 24/3/2017 của Chi cục Thủy sản./. | 28/03/2017 1:40 CH | Đã ban hành | | Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn | Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn | Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn | Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân… Phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Từ định hướng của Đảng về quan hệ công – nông qua các đại hội, có thể thấy phần nào thay đổi về tư duy lãnh đạo qua các thời kỳ. Bắt đầu từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đến coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, rồi phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới, tiếp đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Những chuyển biến này gắn với sự thay đổi về lý thuyết phát triển, lý luận chính trị, thực tế cuộc sống. Thực tiễn cho thấy có nhiều chủ trương là đúng đắn, cũng có chủ trương đúng nhưng thực hiện kém, có những vấn đề mới lý luận phát triển chưa theo kịp thực tiễn. Tác động của các chủ trương, chính sách đúng và sai đã cùng với tác động của chiến tranh, thiên tai, thị trường, công nghệ,… đưa nền nông nghiệp Việt Nam trải qua nhiều bước thăng trầm…
Việt Nam có quy mô đất canh tác tính theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới, nhiều người sản xuất giỏi muốn mở rộng quy mô sản xuất, nhiều nhà đầu tư muốn có đất trồng rừng, nhiều doanh nghiệp muốn thuê đất sản xuất nông nghiệp. Đối với họ, thiếu đất luôn là yếu tố hạn chế sự phát triển sản xuất. Trong khi đó, phần lớn quỹ đất nông nghiệp vẫn bị sử dụng kém hiệu quả, nhiều nơi nông dân không đầu tư, bán rẻ đất nông nghiệp. Người sản xuất muốn mở rộng quy mô, muốn chuyển đổi cơ cấu nhưng thiếu vốn đầu tư để có thêm đất, mua máy móc, xây dựng cơ bản. Theo điều tra mức sống dân cư năm 2004, các hộ nông dân vay từ họ hàng, bạn bè và tư nhân chiếm gần 40% tổng vốn. Mức tiền vay từ ngân hàng nhỏ, 55% các khoản vay dưới 300 USD, có 32% các khoản vay ở mức 335-670 USD. Hộ nghèo và rất nghèo chỉ vay 1,8-2 triệu đồng/năm. Doanh nghiệp nông thôn chủ yếu đầu tư bằng vốn tự có. Hầu hết các xã nghèo đều không cân đối được ngân sách để đầu tư phát triển. Trong khi đó, một lượng vốn khổng lồ trong xã hội chỉ loanh quanh trong thị trường chứng khoán, bất động sản và mua vàng, ngoại tệ và không được huy động vào sản xuất. Ngay nông dân có tiền từ xuất khẩu nông sản (cà phê, tôm, cao su,…), nhờ bồi hoàn đất đai, xuất khẩu lao động,… cũng chỉ biết mua sắm tiêu dùng (xây nhà, mua xe,…) hoặc chuyển tiền ra đô thị, mà không đầu tư có hiệu quả trong nông thôn. Đầu tư cho kinh tế nông thôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng đầu tư xã hội, hầu như không có đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, một lượng vốn lớn của nhà nước đầu tư cho một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả kéo dài nhiều công trình trọng điểm, dự án đầu tư thua lỗ lớn hay hiệu quả thấp như các chương trình: mía đường, dầu tằm tơ, phủ xanh đất trống đồi núi trọc,… Các chương trình đầu tư công lớn liên tục trong nhiều năm như đầu tư cho thủy lợi, cho trồng rừng,… chi phí cho các dịch vụ công quan trọng như nghiên cứu khoa học, khuyến nông, quy hoạch,… chưa được đánh giá hiệu quả một cách khoa học và khách quan thường xuyên làm căn cứ đáng tin cậy cho điều chỉnh đầu tư.
LAO ĐỘNG RỜI BỎ NÔNG THÔN CÀNG NHIỀU VÌ HIỆU QUẢ NÔNG NGHIỆP THẤP
Trong khi sức hút từ công nghiệp và đô thị yếu thì sức đẩy lao động ra từ nông nghiệp khá lớn. Do hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, nên ở nhiều địa phương đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, nông dân không tha thiết với nghề nông. Ví dụ, riêng tỉnh Thái Bình, khoảng 45% lao động đã chuyển khỏi nông nghiệp, 20 vạn người đi làm ăn xa, trong giai đoạn 2000-2004 tốc độ đi làm xa tăng 13%/năm và ngày tăng lên. Lao động trẻ, khỏe, có học vấn rời khỏi nông thôn, để lại trong nông nghiệp người già yếu. Những công việc nặng như làm đất, thu hoạch, vận chuyển thiếu người làm. Theo khảo sát năm 2006 ở tám xã thuộc đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long thì nhiều vùng nông thôn gần như không còn lao động dưới 40 tuổi. Ở đồng bằng sông Hồng, nhiều nơi giảm vụ hoặc bỏ hoang hóa đất; đồng bằng sông Cửu Long thì thiếu lao động trầm trọng trong một số giai đoạn thời vụ sản xuất đang chuyển nhanh sang cơ giới hóa những khâu sử dụng nhiều lao động như làm đất, tưới nước, thu hoạch.
Số lao động ra khỏi nông thôn nhưng không có điều kiện tham gia vào các công việc chính thức ở đô thị và công nghiệp nên phần lớn đang tham gia vào các ngành nghề “không chính thức” như làm hồ, buôn bán rong, khuân vác, vận chuyển, giúp việc nhà, thu gom phế liệu,… cuộc sống gặp nhiều khó khăn, bấp bênh, rủi ro.
Thời gian gần đây, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng nhanh, nhờ tăng diện tích, tăng vụ, sau đó nhờ tăng năng suất nhưng vẫn chủ yếu bằng huy động nhiều lao động, vật tư. Mức độ đóng góp của khoa học – công nghệ thấp, theo Ngân hàng Thế giới, tổng chi cho một cán bộ nghiên cứu ở Việt Nam chỉ bằng 9% của Indonesia và Thái Lan, bằng 2,5% chi phí của Malaysia. Nhìn chung, hiệu quả sản xuất thấp, chất lượng thấp, vệ sinh an toàn thực phẩm và dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi đang là mối lo chung cho toàn xã hội. Tuy khối lượng hàng hóa xuất khẩu lớn nhưng chủ yếu là nông sản thô, giá trị gia tăng nhờ chế biến, tiếp thị thấp. Kết cấu hạ tầng và dịch vụ vận chuyển, lưu kho phát triển kém làm tăng chi phí giao dịch. Do đó, hiệu quả sản xuất thấp, nông dân không gắn bó với nông nghiệp.
Theo số liệu báo cáo và thông kê năm 2006, có 94,2% hộ sử dụng điện, 74% hộ sử dụng nước sạch, 96.9% xã có đường ô tô đến trung tâm, 94,4% xã có điện thoại,… nhưng thực tế, chất lượng sử dụng thấp xa so với đô thị. Theo Tổng cục Thống kê năm 2006, có 21% doanh nghiệp nông thôn cho rằng chất lượng đường giao thông rất kém trong khi ở thành thị là 13%, 8% doanh nghiệp nông thôn cho rằng điện thoại rất kém so với 0% ở thành thị. Có đường nhưng xe tải không đi được, điện thắp sáng không dùng cho sản xuất,…
Số báo cáo và thống kê về dịch vụ nông thôn cũng tốt: năm 2006, 88,3% xã có trường mẫu giáo, 99,3% xã có trường tiểu học, 99,3% xã có trạm y tế, 88,5% xã có điểm bưu điện văn hóa, 58,8% xã có chợ, 78,7% xã có cán bộ khuyến nông – lâm – ngư; 83,6% xã có cán bộ thú y… nhưng chất lượng dịch vụ thấp không thể hiện bằng số liệu. Theo điều tra doanh nghiệp năm 2006, có 9% doanh nghiệp nông thôn phàn nàn chất lượng giáo dục và đào tạo kém so với 1% doanh nghiệp đô thị; về chất lượng đào tạo nghề , tỷ lệ ở nông thôn thấp hơn một nửa…
Rõ ràng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam có sức cạnh tranh yếu, hiệu quả thấp, nông thôn phát triển chậm và chưa vững bền, nông dân chưa làm chủ vận mệnh của mình. Nguyên nhân:
- Có ý kiến cho rằng tỷ lệ đóng góp kinh tế của nông nghiệp ngày càng nhỏ, để tăng trưởng mạnh, cần ưu tiên phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ chế thị trường, doanh nghiệp kinh doanh có thể giải quyết mọi vấn đề trong nông nghiệp, nông thôn. Đô thị hóa là phát triển nông thôn.
- Ý kiến khác cho rằng kinh tế đã phát triển đủ mạnh, có thể mạnh dạn trợ cấp cho nông dân, chuyển sang “lấy ít cho nhiều”. thiếu gì giúp nấy, tạo công bằng theo kiểu ban phát nhân đạo, bù đắp tức thì các bức xúc khó khăn tại nông thôn. Nhà nước cần thu thuế của đô thị hỗ trợ lại cho nông thôn.
- Cũng có cách nhìn nông thôn cố định như xưa, lo làm sao mọi nông dân có mảnh đất nhỏ, giữ nông dân lại nông thôn phát triển nghề nông để cải thiện đời sống, Nhà nước phải cầm tay chỉ việc, dạy dân nuôi con gì? Trồng cây gì? Muốn hành chính hóa các tổ chức dân sự, không vận hành cơ chế thị trường trong các lĩnh vực đất đai, lao động, vốn…
Tóm lại, do nhận thức và quan điểm về nông nghiệp và nông thôn không đúng đắn.
ĐẦU TƯ CHO NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN CÒN THẤP, PHẢI COI TRỌNG NỀN NÔNG NGHIỆP TOÀN DIỆN
Giai đoạn 1997-2006, tỷ trọng chi tiêu công cho ngành công nghiệp chỉ chiếm 10-15% tổng chi đầu tư và xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước. Năm 2007, tổng chi tiêu công cho nông nghiệp bằng 8,6% GDP nông nghiệp, tương đương 7% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp giảm từ 13,8% năm 2000, xuống còn 7,5% năm 2006, trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài hầu như không đáng kể (3-4%). Trong khi đó, tình trạng “cánh kéo giá” bất lợi cho nông ngjệp kéo dài nhiều năm. Từ năm 2003-2005, giá vật tư nguyên liệu đầu vào của nông nghiệp tăng trung bình từ 2-2,5 lần, giá lao động tăng từ 2-3 lần, trong khi đó, giá nông sản chỉ tăng từ 1,2-1,3 lần. Năm 2006, vốn tích lũy bình quân của một hộ nông nghiệp là 5 triệu đồng, bình quân một hộ nông nghiệp sử dụng 0,63 ha đất sản xuất, quá nhỏ bé để tiến lên sản xuất lớn hiện đại. Cả nước có 113,7 nghìn trang trại, chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông – lâm – ngư nghiệp của cả nước. Bình quân một trang trại sử dụng 4,5 ha đất nông – lâm nghiệp và thủy sản. Với tình trạng đầu tư và tích lũy thấp kém như trên, một nông thôn bị tàn phá sau nhiều năm chiến tranh và xác xơ vì kinh tế kế hoạch không thể đủ sức để tự tái sản xuất mở rộng, phát triển công nghệ và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Sau 17 năm liên tục tăng trưởng trên 2 con số, năm 2007, công nghiệp Việt Nam tiếp tục tăng hơn 17% chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu của 30% sống tại đô thị, tập trung vào sản xuất ô tô, xe máy, điện tử…, là những ngành được đầu tư nước ngoài mạnh và bảo hộ cao, trong khi thị trường máy móc, vật tư nông nghiệp phục vụ cho nông thôn bị bỏ ngỏ.
Trong những năm gần đây, các khu công nghiệp phát triển lan ra nhanh tại nhiều tỉnh ven Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội đã lấy đi khá nhiều đất nông nghiệp màu mỡ và tưới tiêu hoàn chỉnh nhưng chưa có địa phương nào mà công nghiệp tạo đủ việc làm cho lao động nông thôn tại chỗ, tiêu thụ và chế biến nhiều nguyên liệu công nghiệp, cung cấp đáng kể vật tư và thiết bị cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống nông thôn…
Như vậy, muốn khôi phục tăng trưởng sản xuất nông nghiệp lâu dài, phải chấm dứt được tình trạng “coi nhẹ nông nghiệp”. Trước hết, lượng vốn đầu tư cho nông nghiệp phải tăng tương ứng với mức đóng góp cho GDP và không kém hơn tỷ lệ bình quân các nước trong vùng. Đầu tư ngân sách tập trung vào phát triển nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và dạy nghề cho nông dân, vào chế biến, tiếp thị, phát triển thị trường, cùng các giải pháp đổi mới thể chế (gắn các viện nghiên cứu với trường đại học, nối kết nghiên cứu - đào tạo - chuyển giao công nghệ, tạo động lực cho lao động trí óc, thu hút trí thức về nông thôn…) sẽ phát huy tài nguyên con người và khoa học - công nghệ trở thành động lực chính cho tăng trưởng nông nghiệp tương lai, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng hiệu quả và giá trị nông sản, tăng mạnh khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Traong hoàn cảnh thế giới tăng nhu cầu nhập khẩu nông sản; vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước sẵn sàng, với lợi thế tự nhiên và xã hội, Việt Nam sẽ thu hút được một lượng đáng kể đầu tư nước ngoài và tư nhân vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Tăng tiền đầu tư hiệu quả sẽ kéo theo nhiều vốn đến đầu tư. Nền nông nghiệp Việt Nam có cơ hội phát triển kết cấu hạ tầng, trang bị máy móc và áp dụng công nghệ, đi nhanh lên hiện đại hóa./.
Tại Bến Tre, Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015, khẳng định: “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, coi công nghiệp thật sự là khâu đột phá, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường; gắn phát triển nông nghiệp với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.
Với nông nghiệp, tỉnh sẽ xây dựng từ 1 đến 2 mô hình nông nghiệp kỹ thuật cao tại huyện Chợ Lách, để nơi đây trở thành trung tâm sản xuất và cung ứng giống cây ăn trái chất lượng cao cho các tỉnh phía Nam; xây dựng và nhân rộng một số mô hình sản xuất cây ăn trái đặc sản đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ, thực hiện có hiệu quả các dự án trồng dừa và 30% diện tích dừa được trồng xen ca cao; ổn định và nâng cao năng suất, chất lượng vùng sản xuất lúa tập trung ở Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Thạnh Phú. Khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng bền vững và an toàn vệ sinh thực phẩm. Đẩy mạnh khai thác tiềm năng biển, phát triển kinh tế vùng ven biển trở thành các vùng động lực phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Ưu tiên vốn và tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện các tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
“Phát triển nông nghiệp thủy sản theo chiều sâu hướng đến mục tiêu năng suất, chất lượng, hiệu quả trong bối cảnh mật độ dân số nông thôn của tỉnh khá cao, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Tập trung nâng cao trình độ và hiệu quả sản xuất; phát triển đồng bộ với ngành, lĩnh vực khác và việc xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, giảm thời gian nông nhàn ở khu vực nông thôn, góp phần đào tạo nguồn nhân lực và đổi mới công nghệ; tăng dần hàm lượng công nghệ và tri thức trong nông- thủy sản; tích cực bảo vệ môi trường, hệ sinh thái và tài nguyên nông nghiệp; hạn chế phân hóa xã hội, đảm bảo ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.”
(Quy hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Bến Tre dến năm 2020)
(Nghị quyết về phát triển kinh tế công- nông nghiệp của Đại hội IX Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2010-2015)
HUỲNH THANH VĂN
|
| 28/10/2014 7:10 SA | Đã ban hành | | Nông dân Giồng Trôm khẩn trương xuống giống vụ đông xuân sớm 2016-2017 | Nông dân Giồng Trôm khẩn trương xuống giống vụ đông xuân sớm 2016-2017 | Thời điểm này, nông dân trên địa bàn huyện Giồng Trôm đang tập trung thu hoạch vụ lúa Hè Thu 2016 và khẩn trương cải tạo đồng ruộng để chuẩn bị xuống giống vụ lúa Đông Xuân sớm 2016-2017 | Vụ
hè thu năm 2016 này, huyện Giồng Trôm xuống giống gần 2.600 ha lúa tại
các xã tiểu vùng 1 và 2 với các giống phổ biến như OC 10, OM 4900 và các
giống lụa chịu mặn khác. Riêng các xã tiểu vùng 2 (gồm Tân Thanh, Hưng
Nhượng, Bình Thành, Châu Bình và Thị Trấn) xuống giống hơn 2.100 ha.
Hiện tại nông dân các xã vùng lúa đang bước vào giai đoạn thu hoạch,
chuẩn bị cho vụ Đông Xuân 2016-2017. Diện tích lúa đã thu hoạch hơn
1.400 ha, sản lượng ước đạt khoảng 4,7 tấn/ha.
Cảnh thu hoạch vụ lúa Đông
Xuân 2015 – 2016 tại xã Bình Thành.
Để
tránh ảnh hưởng bởi xâm nhập măn, UBND huyện Giồng Trôm đã xây dựng kế
hoạch sản xuất vụ Đông Xuân sớm 2016-2017. Theo đó, vụ lúa Đông Xuân
huyện Giồng Trôm sẽ đảm bảo xuống giống 2.600 ha, phấn đấu đạt năng suất
6 tấn/ha. Sau khi thu hoạch xong vụ Hè Thu, nông dân cần tiến hành vệ
sinh đồng ruộng, phát quang cỏ dại, cày, xới phơi đất để hạn chế sâu
bệnh còn lưu tồn trong đất trước khi xuống giống vụ Đông Xuân sớm; cần
kết hợp việc san bằng mặt ruộng, đánh rãnh thoát nước để thuận tiện cho
việc chăm sóc và bón phân. Hạn
mặn có chiều hướng diễn biến phức tạp, do đó theo kế hoạch của huyện,
nông dân cần tập trung xuống giống đồng loạt từ thời điểm này đến ngày
25/10/2016. Gieo sạ đồng loạt, đúng lịch thời vụ, không nên kéo dài để
hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Áp dụng sạ hàng, sạ thưa
để giảm áp lực sâu bệnh, lượng giống sử dụng từ 100 đến 120 kg/ha. Bên
cạnh đó, nông dân cần dọn dẹp sạch cỏ dại trên các tuyến kênh để khơi
thông dòng chảy và trữ nước ngọt phục vụ sản xuất. Vụ
lúa Đông Xuân 2016-2017, nông dân nên sử dụng các loại giống gieo sạ
phổ biến tại địa phương như: OM6162, OM7347, OM4900, OM9921, OM5451,
OC10, …. Các loại giống này nên chọn giống lúa xác nhận tại các Trung
tâm giống, tổ nhân giống hoặc đại lý lúa giống trong và ngoài tỉnh, bảo
đảm đạt các tiêu chuẩn theo quy định chất lượng. Cần xử lý hạt giống
trước khi sạ để tăng khả năng chống chịu khi gặp điều kiện bất lợi của
môi trường và sâu bệnh. Mặc khác, nông dân trên địa bàn huyện cần áp
dụng tổng hợp các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, giúp cây lúa phát triển
tốt, chống chịu điều kiện môi trường và sâu bệnh như: Xử lý hạt giống;
quản lý cỏ dại; chủ động điều tiết nước phù hợp với từng thời kỳ sinh
trưởng của cây; bón phân NPK cân đối; ứng dụng thực hiện chương trình "3
giảm 3 tăng" và phòng trừ dịch hại tổng hợp theo chương trình IPM nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tăng chất
lượng nông sản và bảo vệ môi trường sinh thái; … Song
song đó, để phòng trừ sâu bệnh hiệu quả, nông dân cần sử dụng nguyên
tắc 4 đúng trong sản xuất (đúng thuốc, đúng nồng độ liều lượng, đúng lúc
và đúng cách) để tăng hiệu quả phòng trừ sâu bệnh, giảm chi phí đầu tư,
tăng hiệu quả kinh tế. Bà con nông dân chú ý thăm đồng thường xuyên để
theo dõi quá trình sinh trưởng của cây lúa, sớm phát hiện sâu bệnh để
phòng trừ, nhất là bệnh đạo rầy nâu, bẫy đền đang có nguy cơ phát sinh
trong các tháng này. Xác định, khoanh vùng diện tích nhiễm bệnh, phòng
trừ, xử lý kịp thời không để lây lan trên diện rộng./.
Minh Mừng | 02/11/2016 8:30 SA | Đã ban hành | | Ba tri thực hiện công tác phòng cháy rừng trong mùa khô | Ba tri thực hiện công tác phòng cháy rừng trong mùa khô | Ba tri thực hiện công tác phòng cháy rừng trong mùa khô | Huyện Ba Tri có diện tích rừng là 880 hecta. Phần lớn diện tích còn lại là rừng phòng hộ gồm rừng ngập mặn và rừng phi lao chắn gió. Hiện nay đang vào mùa khô, nhiều loại cây đang vào thời kỳ thay lá, chính vì thế, các ngành chức năng huyện và các xã có rừng trên địa bàn đang tập trung thực hiện những biện pháp phòng chống cháy rừng.

Thực tập chữa cháy rừng.
Theo thông tin từ Hạt Kiểm lâm huyện, hiện trên địa bàn huyện Ba Tri, nguy cơ có thể xảy cháy tại 3 điểm gồm rừng bảo tồn Sân chim Vàm Hồ và rừng phi lao chắn gió ở xã An Thủy, Bảo Thuận. Trong đó, đáng ngại nhất là rừng bảo tồn Sân chim Vàm Hồ, bởi ở đây, mật độ cây rừng và thảm thực bì dày.
Sân chim Vàm Hồ nằm trên địa bàn xã Tân Mỹ huyện Ba Tri có diện tích 62 hecta. Đây là cánh rừng ngập mặn. Thảm thực vật ở đây chủ yếu là các loại cây như: chà là, đước, mắm và lau, sậy… Ngoài ra, nơi đây được trồng thêm các loại cây như: keo tai vàng, bạch đàn, phi lao. Thảm thực vật khu bảo tồn phát triển tốt là điều kiện thuận lợi để nhiều loại chim, thú nơi đây sinh trưởng. Tràm chim ở đây có trên 20 loại. Nhưng chủ yếu là cò, vạt và còng cọc. Ngoài ra, tại khu bảo tồn sân chim Vàm Hồ còn các loại động vật hoang dã khác như: rắn, chồn, kỳ đà… Đây được xem là khu bảo tồn động, thực vật lớn nhất và phong phú nhất của Tỉnh Bến Tre.
Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng chống cháy rừng tại khu bảo tồn sân chim Vàm Hồ là rất quan trọng, các cấp chính quyền, các ngành chức năng mà đặc biệt là lực lượng bảo vệ ở đây luôn đẩy mạnh công tác phòng cháy chữa cháy. Ủy ban nhân dân xã Tân Mỹ đã thành lập đội phòng chống cháy rừng với trên 30 thành viên. Trong đó lực lượng chủ yếu là bảo vệ, công an xã và các hộ có nhà sống ven rừng. Đội phòng cháy chữa cháy xã Tân Mỹ được tập huấn kiến chức phòng chống cháy, nổ. Đồng thời chính quyền địa phương và các ngành chức năng cũng đã trang cấp các thiết bị phòng, chữa cháy chuyên dụng và một số dụng cụ thô sơ cho lực lượng làm nhiệm vụ tại đây.

Cắt đường băng phòng cháy lan.
Được biết, vào mùa khô, thảm thực bì tự nhiên ở đây khá dày. Đây là điều kiện để làm tăng độ phì nhiêu cho đất. Đồng thời thảm thực bì dày cũng gây không ít khó khăn cho công tác phòng chống cháy rừng, nhất là vào thời điểm mùa khô như hiện nay. Do vậy, công tác phòng chống cháy rừng ở đây luôn được đẩy mạnh. Đội bảo vệ phải thường xuyên thu gom, cắt luồn thực bì để ngăn không cho cháy lan phòng khi có tình huống cháy xãy ra. Đồng thời trong khu vực này cũng đã được đào mương, cắt luống thành từng lô, thửa nhằm đa dạng hệ sinh thái và góp phần vào công tác phòng chống cháy rừng.
Bên cạnh đó, các ngành chức năng đã cắm panô, bản nội qui, biển báo cấm lửa nhằm tuyên truyền bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng. Riêng đối với lực lượng bảo vệ, ngoài công tuần tra bảo vệ, không để người lạ xâm nhập vào săn bắt động vật thì công tác tuần tra phòng chống cháy rừng cũng được tăng cường. Các anh luôn đảm bảo tuần tra cả ngày lẫn đêm để kịp thời xử lý, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho khu vực bảo tồn này.
Hiện nay đang là mùa khô. Đây là thời điểm rất dễ xảy ra hỏa họan. Bên cạnh việc các ngành chức năng, lực lượng phòng cháy của các xã đảm bảo tốt công tác phòng cháy chữa cháy thì ý thức của người dân đối với công tác phòng chống cháy rừng là rất quan trọng. Bà con cần nêu cao ý thức phòng cháy chữa cháy. Đặc biệt là phải cẩn thận khi sử dụng lửa và các dụng cụ dễ dẫn đến cháy, nổ trong khu vực rừng bảo tồn Sân chim Vàm Hồ và các cánh rừng phi lao chắn gió.
Minh Đức | 17/03/2015 1:41 SA | Đã ban hành | | Chợ Lách có 4.800 hộ đạt danh hiệu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp | Chợ Lách có 4.800 hộ đạt danh hiệu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp | Năm 2017 Hội Nông dân từ huyện đến cơ sở đã phát động phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi rộng khắp trong hội viên, nông dân. Qua phát động có 14.837 hộ đăng ký, đạt 65% so với hộ nông nông nghiệp và đạt 100% chỉ tiêu theo Giao ước thi đua. | Cuối năm bình xét có 4.782 hộ đạt danh hiệu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, đạt 107% so chỉ tiêu tỉnh, đạt 32% so với hộ đăng ký. Trong đó cấp Trung ương 27 hộ, cấp tỉnh 270 hộ, cấp huyện 1.321 hộ, cấp cơ sở 3.164 hộ. Những gương nông dân điển hình tiên tiến như: Hộ chị Nguyễn Thị Nga, ấp Bình Tây, xã Vĩnh Thành với mô hình hoa treo; Hộ ông Đào Tấn Cảnh, ấp Cống, xã Phú Phụng; Hộ ông Hồ Văn Ngon, ấp Tân Thới, xã Sơn Định; Hộ ông Lê Văn Tư, ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Nghĩa với mô hình trồng chôm chôm đạt hiệu quả kinh tế cao; Hộ ông Nguyễn Văn Pha, ấp Lân Tây, xã Phú Sơn nổi bậc với mô hình cây giống, hoa kiểng. 
Nông dân sản xuất giỏi Nguyễn Văn Pha với nghề sản xuất mai vàng bán
trong dịp Tết.
Các mô hình có hiệu quả trong hoạt động điển hình như: Hợp tác xã nông nghiệp Sơn Định, tổ hợp tác nuôi dê ấp Thới Định, Thị trấn Chợ Lách, tổ hợp tác chôm chôm Vĩnh Lộc, xã Vĩnh Bình. Trong phong trào hội viên giúp nhau vượt qua khó khăn, thoát nghèo và vươn lên làm giàu, Ban thường vụ Hội Nông dân huyện xác định xây dựng mô hình "tổ Hội nghề nghiệp" thoát nghèo nhằm xây dựng mô hình thoát nghèo bền vững trong hội viên, nông dân. Mô hình bước đầu đã hình thành ở 11/11 đơn vị Hội Nông dân cơ sở. Hội Nông dân các xã, thị trấn vận động 152 hộ hội viên đăng ký thoát nghèo. Với nhiều hình thức giảm nghèo như hỗ trợ cây con giống, vay vốn hỗ trợ lãi suất, tham gia các tổ Hội nghề nghiệp,…đến cuối năm dự kiến có 85 hộ giảm nghèo. Mặt khác Hội nông dân cơ sở còn phối hợp dự án AMD xây dựng mô hình nuôi bò sinh sản cho 01 hộ cận nghèo và 01 hộ cận nghèo, trị giá 30.000.000đ; hỗ trợ 05 con dê sinh sản cho 03 hộ nghèo, trị giá 27 triệu đồng ở xã Vĩnh Thành và Hưng Khánh Trung B; Xây dựng dự án thoát nghèo cho 03 hộ trồng cây mít giống, 04 hộ trồng cây xoài giống, trong đó vốn đối ứng của hộ dân là 6 triệu/hộ, dự án hỗ trợ 24 triệu/hộ ở xã Long Thới. Tiểu dự án đã được thẩm định và cấp 50% vốn cho các hộ để sản xuất. Ngoài ra, Hội Nông dân huyện hỗ trợ xây dựng tiểu dự án xây dựng tổ thợ hồ ở xã Vĩnh Hòa, với kinh phí dự án hỗ trợ 207 triệu đồng để mua máy móc, thiết bị. Tổ sẽ đi vào hoạt động trong tháng 12/2017 và tiếp tục thực hiện trong năm 2018. | 23/01/2018 10:00 SA | Đã ban hành | | Bình Đại: Nông dân thu lợi hơn 600 triệu đồng mỗi năm nhờ trồng bưởi da xanh xen nhãn idor | Bình Đại: Nông dân thu lợi hơn 600 triệu đồng mỗi năm nhờ trồng bưởi da xanh xen nhãn idor | Nhờ chịu khó nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, anh Trần Văn Sơn, ở ấp Hưng Nhơn, xã Châu Hưng, huyện Bình Đại đã thu lợi hơn 600 triệu đồng mỗi năm từ trồng bưởi da xanh xen nhãn idor trên diện tích 23.000ha đất vườn dừa kém hiệu quả sau 4 năm chuyển đổi. | Năm 2014, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của xã Châu Hưng. Anh Trần Văn Sơn đã đầu tư mua 23.000ha đất vườn dừa lão hóa kém hiệu quả để cải tạo trồng bưởi da xanh xen nhãn idor. Nhờ có sẵn kinh nghiệm trồng bưởi từ gia đình, đồng thời thường xuyên theo dõi, học tập kinh nghiệm và tham gia các lớp tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc và phòng, trị bệnh cho cây trồng từ các chương trình khuyến nông và trên các phương tiện thông tin đại chúng, nên anh Sơn đã thành công với mô hình trồng xen canh.
Mô hình trồng bưởi da xanh xen nhãn idor cua anh
Sơn.
Sau 3 năm canh tác, cây bưởi và cây nhãn cho thu hoạch vụ đầu tiên và cho lãi lớn. Trong đó, bưởi da xanh cho thu hoạch hàng tháng, hiện tại mỗi tháng bưởi cho thu hoạch kéo dài từ 20 – 25 ngày, năng suất bình quân đạt 1,5 tấn trái, giá dao động từ 30 ngàn đến 50 ngàn đồng/1kg, trừ chi phí lãi trên 20 triệu đồng, riêng nhãn idor mỗi năm cho thu hoạch 1 vụ, năng suất đạt 1,5 tấn, giá bán 30 ngàn đến 35 ngàn đồng/1kg, sau khi trừ chi phí đầu tư phân thuốc, công lao động anh còn lãi 400 triệu đồng. Trong quá trình trồng xen, để 2 loại cây trồng phát triển xanh tốt, chất lượng trái đẹp, vị ngọt thanh và cho năng suất cao, anh Sơn chủ động bón phân chuồng kết hợp sử dụng phân hữu cơ định kỳ 20 ngày bón 1 lần và tiến hành bồi gốc mỗi năm 1 lần cho cây trồng, đồng thời để tiết giảm các khoản chi phí ban đầu anh Sơn còn đầu tư trên 100 triệu đồng lắp đặt hệ thống tưới phun sương. Anh Sơn chia sẻ: "Trồng bưởi quan trọng nhất là chủ động được vùng đất, nước tưới, loại thuốc và bón phân hợp lý. Tuy nhiên, mấu chốt quan trọng mang lại thành công trong mô hình trồng xen là áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bao gồm các bước: chọn giống cây khỏe, chú trọng bổ sung dinh dưỡng thường xuyên, hạn chế sử dụng phân hóa học..."
Anh Trần Văn Sơn giới thiệu mô hình trồng xen
của gia đình.
Nhìn chung, mô hình trồng bưởi da xanh xen nhãn idor của anh Sơn được chính quyền và người dân địa phương đánh giá rất cao, do đạt hiệu quả về lợi nhuận và có thể mở rộng quy mô, giúp nông dân phát triển kinh tế gia đình và từng bước vươn lên làm giàu. Không dừng lại trong việc đầu tư phát triển kinh tế, anh Sơn còn mạnh dạng chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật với bà con trong xã, từ chọn vùng đất trồng, nước tưới, phân bón, thuốc phun an toàn cho đến cách phun hiệu quả nhất, đặc biệt hỗ trợ, bán trả chậm cây giống cho hội viên, nông dân nghèo chịu khó cải tạo vườn tạp và có ý chí thoát nghèo, để cùng phát kinh tế gia đình. Hai năm liền, anh Trần Văn Sơn đạt danh hiệu Nông dân sản xuất giỏi cấp xã và đang được đề nghị danh hiệu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp huyện năm 2018./. Thanh Hương | 11/12/2017 4:30 CH | Đã ban hành | | Bình Đại: Tăng cường phòng chống dịch gia súc, gia cầm | Bình Đại: Tăng cường phòng chống dịch gia súc, gia cầm | Theo thống kê, toàn huyện hiện có tổng đàn gia súc, gia cầm trên 96.200 con. Trong đó, đàn bò có 4.543 con, đàn heo có 13.833 con, đàn dê có hơn 8.200 con, đàn chó 15.084 con và 62.771 con gia cầm | Thực hiện kế hoạch phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi tại địa phương. Ngay từ đầu năm 2016, UBND huyện đã chỉ đạo ngành thú y huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng về tình hình dịch bệnh và các biện pháp phòng chống dịch bệnh đến các hộ chăn nuôi. Tăng cường công tác kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y thực phẩm có nguồn gốc động vật ở tất cả các khu chợ, các xã, thị trấn. Qua đó, đã tham gia lấy 1 mẫu cơ sở giết mổ, 5 mẫu cơ sở nuôi heo kiểm tra chất cấm trong chăn nuôi ở xã Châu Hưng, Long Hòa, Định Trung. Qua kết quả kiểm tra 6 mẫu đều âm tính.  Tổ chức tiêm phòng gia súc, gia cầm đợt I năm 2016. Đến nay, các xã, thị trấn trong huyện đã tiêm phòng được 31.310 liều cúm gia cầm, đạt gần 50% kế hoạch, 1.400 liều phòng dại chó, đạt trên 9,28% so với tổng đàn, tiêm 3.354 liều dịch tả heo, đạt trên 24% kế hoạch, 200 liều dịch tả vịt và tiêm 11.747 liều tụ huyết trùng cho gia súc, gia cầm, 8.300 liều newcatle hệ 1, hệ 2 và chịu nhiệt….v.v. Ngoài ra, huyện cũng tập trung trong công tác vệ sinh tiêu độc trong đợt 1/2016 đã cấp cho 20 xã, thị trấn 282 lít hóa chất khử trùng để thực hiện vệ sinh tiêu độc cho hơn 202.845 đàn gia cầm, 21.719 đàn gia súc và 500 chim cút, tại những ổ dịch cũ và những nơi có nguy cơ phát sinh dịch bệnh cao. Đồng thời, vận động các hộ chăn nuôi mua thêm vôi bột, thuốc khử trùng thực hiện phun vệ sinh tiêu độc, khử trùng chuồng trại theo định kỳ và theo khuyến cáo của các cơ quan chuyên môn. Theo Bùi Tuấn Vũ - Phó Trưởng Trạm Thú y huyện Bình Đại: "Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền cũng như tiêm phòng, kiểm soát dịch bệnh, đến thời điểm này, toàn huyện không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tuy nhiên, với đặc thù là một huyện biển địa bàn rộng, trong thời gian giữa năm là thời tiết có nhiều biến động, đặc biệt là quá trình chuyển giao giữa mùa nắng và mùa mưa chính là nguy cơ phát sinh mầm bệnh, nhất là dịch cúm gia cầm. Bên cạnh đó, việc kiểm soát dịch bệnh, kiểm dịch động vật cũng gặp nhiều khó khăn do ý thức phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi của một số người dân vẫn còn thấp". Hiện nay, công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi đang được huyện xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong sản xuất nông nghiệp từ nay đến cuối năm. Theo đó, huyện đẩy mạnh củng cố, tập huấn công tác chuyên môn cho mạng lưới thú y viên cơ sở. Chỉ đạo tăng cường giám sát chặt chẽ đối với một số bệnh nguy hiểm trên đàn gia súc, gia cầm, phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời, không để dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Đặc biệt, tập trung tuyên truyền về việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi và thực hiện công tác tiêm phòng cúm gia cầm bổ sung theo nhu cầu của người chăn nuôi. Tiếp tục chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống dịch để bảo vệ sức khỏe của người dân và đảm bảo sản xuất chăn nuôi phát triển ổn định./. Thanh Hương | 20/06/2016 7:35 SA | Đã ban hành | | Ông Phạm Văn Nhựt – Nhà nông chuyên lai tạo, phục tráng giống lúa giúp bảo tồn đa dạng sinh học ở đồng bằng Sông Cửu Long | Ông Phạm Văn Nhựt – Nhà nông chuyên lai tạo, phục tráng giống lúa giúp bảo tồn đa dạng sinh học ở đồng bằng Sông Cửu Long | Người mà chúng tôi để cặp đến trong bài viết nầy, đó là ông Phạm Văn Nhựt, một nông dân ở ấp 3, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông là một trong 15 nông dân của khu vực đồng bằng sông Cữu Long được Viện Nghiên cứu Phát triển đồng bằng sông Cữu Long – Trường Đại học Cần Thơ tôn vinh danh hiệu “Nhà nông lai – chọn giống lúa và bảo tồn đa dạng sinh học” giai đoạn năm 2010 – 2015. | Người mà chúng tôi để cặp đến trong bài viết nầy, đó là ông Phạm Văn Nhựt, một nông dân ở ấp 3, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông là một trong 15 nông dân của khu vực đồng bằng sông Cữu Long được Viện Nghiên cứu Phát triển đồng bằng sông Cữu Long – Trường Đại học Cần Thơ tôn vinh danh hiệu "Nhà nông lai – chọn giống lúa và bảo tồn đa dạng sinh học" giai đoạn năm 2010 – 2015.
Ảnh 1: Ông Phạm Văn Nhựt bên
cạnh những thành quả đạt được. Ảnh: NC.
Xuất thân trong một gia đình nông dân gắn bó với đồng ruộng nhiều thế hệ, sau ba năm thi hành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, ông tiếp tục trở về với đồng ruộng. Đây được coi là bước đột phá của một nhà nông làm công tác khoa học. Để có được kết quả trên, ông phải trải qua nhiều năm miệt mài, nghiên cứu thực hành lai tạo các loại giống lúa chất lượng, phù hợp điều kiện vùng đất của địa phương xã Phong Mỹ nói riêng và cả tỉnh nói chung. Nhớ lại những năm 1990, khi đó diện tích đất lúa ở huyện Giồng Trôm có khoảng 4.800 ha, chiếm gần 30% diện tích nông nghiệp huyện. Thời điểm ấy, phần lớn các hộ sử dụng giống trung vụ, hoặc giống bị thoái hóa nên hiệu quả kinh tế đem lại không cao. Trăn trở trước những khó khăn của người trồng lúa không có nguồn giống tốt để canh tác, lúa gạo sản xuất cũng chưa có sự cạnh tranh trên thị trường, việu tiêu thụ lúa, gạo hàng hóa còn gặp không ít khó khăn. Năm 1995, ông Nhựt may mắn được Hội Nông dân xã Phong Mỹ giới thiệu tham dự lớp tập huấn nhân chọn tạo giống lúa cộng đồng do Trung tâm giống nông nghiệp tỉnh Bến Tre phối hợp Trường Đại học Nông nghiệp Cần Thơ tổ chức. Tại đây, ông và các thành viên trong trong lớp học được tiến sĩ Huỳnh Quang Tín và thạc sĩ Nguyễn Thị Cúc (Trường ĐH Nông nghiệp Cần Thơ) trực tiếp giảng dạy. Sau ba tháng nghiên cứu về lý thuyết và thực hành trên đồng ruộng, ông có được kiến thức cơ bản, cộng với lòng say mê nghiên cứu khoa học, giúp ông thực hành lai tạo một số giống mới tương đối thành thạo. Như được tiếp thêm luồng sinh khí mới, ông đã bắt tay vào phục tráng, trồng và khảo nghiệm 02 giống trung vụ trồng tại địa phương xã Phong Mỹ đã thoái hóa (nay gọi OC10 hạt dài và OC10 hạt tròn) và một số giống trao đổi từ các tỉnh lân cận như: AGPS-103, lúa Núi Vôi (An Giang), Hậu Mỹ Trinh (Tiền Giang), Hòn Đất (Kiên Giang)…. Ban đầu sản xuất thử nghiệm vài ba công đất, sau đó ông mở rộng ra toàn bộ diện tích 03ha, chuyên sản xuất các bộ giống mới cung cấp cho thị trường. Trong số các bộ giống do ông nghiên cứu lai tạo, cũng như phục tráng thành các giống lúa thuần, có bộ giống 0C10 (hạt tròn) và OC10 (hạt dài) được thị trường trong tỉnh ưa chuộng. Các bộ giống lúa Núi Vôi (An Giang), Hậu Mỹ Trinh (Tiền Giang), Hòn Đất (Kiên Giang)…. được tiếp tục sản xuất khảo nghiệm. Đặc biệt năm 2013, ông nhận thực hiện quy trình sản xuất lai tạo giống lúa ngắn ngày, thích nghi với vùng sản xuất lúa bị nhiễm mặn ở đồng bằng sông Cữu Long. Ông đưa ra ý tưởng sản xuất ra giống lúa ngắn ngày để thay thế giống OC10 đang bị thoái hóa, nhất là rút ngắn thời gian sinh trưởng sao cho phù hợp với điều kiện sản xuất vùng đất nhiễm mặn của địa phương. Dựa trên quy trình hướng dẫn của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, ông tách từ tổ hợp lai L618-1-3-3-3 ra làm hai dòng mới, gồm một dòng cây cao và một dòng cây thấp. Sau đó, ông tiếp tục chọn lọc lại và chọn dòng phân ly đến thế hệ F7 thì cơ bản hoàn chỉnh bộ giống. Tại Hội thảo tổng kết Dự án Hợp tác Fares được tổ chức tại tỉnh Bạc Liêu cuối năm 2013, toàn khu vực phía Nam chỉ có 03 bộ giống được công nhận và cho phép đưa vào sản xuất đại trà. Trong đó, giống lúa do ông Phạm Văn Nhựt sản xuất lai tạo, có năng suất chất lượng vượt trội, thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu và đặt tên là PM1 (Phong Mỹ 1) được dự án công nhận, đưa vào bản đồ nông nghiệp trồng lúa của đồng bằng sông Cữu Long. Tính sau gần 10 năm sản xuất khảo nghiệm các giống lúa mới, Ông đã sản xuất lai tạo thành công trên chục bộ giống mới, chất lượng cao và kháng được sâu bệnh, phù hợp với điều kiện vùng đất Bến Tre. Trong số bộ giống lúa do ông phục tráng, có hai bộ giống OC10 hạt tròn và OC10 hạt dài, nay được ưa chuộng trên thị trường gạo chế biến của tỉnh Bến Tre. Bên cạnh đó, ông còn nhận trồng khảo nghiệm các giống lúa Kiên Giang 8, Kiên Giang 9, Lộc Trời 7, Lộc Trời 8…. Rút kinh nghiệm từ kết quả lai tạo thử nghiệm cũng như phục tráng các bộ giống mới thành công, ông chuyển sang chuyên sản xuất các giống lúa thuần chất lượng cao để cung cấp cho thị trường. Bên cạnh liên kết với nhiều hộ trồng lúa trong xã thành lập tổ chuyên sản xuất các giống lúa chất lượng cao. Tính bình quân mỗi năm, Tổ sản xuất lúa giống xã Phong Mỹ đã cung cấp cho thị trường trong, ngoài huyện hàng chục tấn giống lúa xác nhận. Thành công trên đã góp phần cung cấp nguồn giống mới chất lượng cho khu vực trồng lúa trong huyện Giồng Trôm nói riêng và giao lưu, trao đổi cùng một số tỉnh khu vực lân cận nói chung. Cuối tháng 10/2016, chúng tôi có dịp đến tham quan quy trình sản xuất lai tạo giống lúa mới của ông Phạm Văn Nhựt. Mặc dù có đến 3ha đất lúa – kết hợp nuôi bò, heo sinh sản, nhưng sự đam mê lai tạo các bộ giống mới vẫn luôn cháy bỏng ở người kỹ sư chân đất nầy. Trong nhà lưới, ông đang lai tạo thử nghiệm lúa Nhật hạt tròn AGPPS-103 và AGPSPP được 7 vụ, hướng thay thế cho bộ giống OC10 bị ảnh hưởng trong điều kiện mặn xâm nhập làm giảm năng suất. Thấy chúng tôi đến thăm, ông khẻ tâm sự: "Ngoài lai tạo giống lúa mới, tôi đang trồng thử nghiệm tiếp 01ha lúa CT-17 (Trà Vinh) ( TGST 95 ngày). Vụ Đông- xuân rồi năng suất khá lắm, gạo lại khô cơm như OC10. Để mở rộng sản xuất, tôi tặng cơ sở bán gạo một ít để ăn thử và mỗi cở sở làm bún 10kg nếu họ hài lòng, tôi sẽ khuyến cáo những hộ trồng lúa ở Phong Mỹ chuyển sang thay thế giống OC10. Trong điều kiện chưa cạnh tranh được với gạo OC10, tôi cũng tiếp tục trồng và khuyến cáo một số hộ cùng trồng để bán làm thức ăn cho gà, lý do lúa nầy có hạt tương đối tròn nên có giá đắc hơn lúa hạt dài từ 1.500 đồng – 2.000 đồng/kg và nó ngắn ngày thích hợp trong việc né mặn xâm nhập sớm trong vụ lúa Đông - xuân".
Ảnh 2: Ông Phạm Văn Nhựt bên
cạnh những thành quả đạt được. Ảnh: NC.
Trong thời gian tới ông Nhựt có dự tính liên kết cùng một số nông dân tâm huyết sản xuất và cung ứng ra thị trường giống lúa "Thảo dược" theo đơn đặt hàng của một vài Doanh nghiệp ở TP. HCM. Hy vọng với bước đột phá này sẽ giúp Tổ liên kết của ông có thêm một hướng đi mới trong sản xuất lúa gạo theo hướng sạch, an toàn. Sau buổi trò chuyện, chúng tôi chào ông ra về vẫn không hết trân trọng trước sự đóng góp của người nông dân giản dị nầy. Một con người tuy chưa có vị thế trong cái nhìn của nhiều người, nhưng lại thầm lặng cống hiến cho cho xã hội một tiềm năng khoa học rất thiết thực./. | Nguyễn Thị Ngọc Châu CTV Trạm Khuyến nông huyện Giồng Trôm |
| 14/06/2017 3:00 CH | Đã ban hành | | Nông dân Chợ Lách tập trung xuống giống mùa hoa cúc tết | Nông dân Chợ Lách tập trung xuống giống mùa hoa cúc tết | Nông dân Chợ Lách tập trung xuống giống mùa hoa cúc tết | Bên cạnh sản phẩm mai vàng, hoa cúc được xem là một trong những loại hoa chủ lực được nông dân Chợ Lách đầu tư phát triển vào những dịp tết. Để chuẩn bị cho mùa hoa tết 2016, những ngày qua nông dân chuyên trồng hoa cúc mâm xôi tại các xã như Vĩnh Thành, Long Thới, Tân Thiềng tất bật xuống giống để chuẩn bị cho vụ cúc Tết.
Tại khu vực ấp Tân Thạnh xã Tân Thiềng không khí xuống giống hoa cúc khá nhộn nhịp. Một số khu đất rộng đã được phủ kín bởi hàng trăm chậu cây lớn nhỏ xếp thẳng hàng. Nhiều nông dân đang bận rộn trồng cây giống vào chậu, tưới nước, bón phân...Vừa tưới nước cho những chậu cúc mới trồng, chị Nguyễn Thị Loan cho biết: "Năm nay nhà tôi trồng 600 chậu cúc mâm xôi, tăng hơn 200 chậu so tết năm 2015. Cúc được xuống giống vào ngày mùng 9/6 âm lịch. Ở đây người trồng cúc thường chia làm 2 thời điểm xuống giống, nếu hộ sử dụng cách ngắt 04 cơi đọt xuống giống trong khoảng thời gian từ ngày 24 đến ngày 30/6 âm lịch, riêng tôi chọn cách ngắt 05 cơi đọt nên xuống giống trong khoảng thời gian từ mùng 6 đến mùng 10 tháng 6 âm lịch".

Chị Nguyễn Thị Loan chăm sóc cho những chậu cúc vừa xuống giống 5 ngày tuổi.
Đây là lần thứ hai chị Loan tham gia trồng hoa cúc tết, mùa trước chị trồng 400 chậu cúc mâm xôi nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm của một số chị em đi trước vườn cúc mâm xôi của Loan đạt hiệu quả cao. Giá bán 40 ngàn đồng/giỏ, sau khi trừ chi phí chị còn lãi khoảng 20 triệu đồng. Chị Loan cho biết trước đây chị làm vườn trồng cây ăn trái mới chuyển qua làm bông tết được khoảng 2 năm nhưng so về kinh tế thì trồng hoa tết hiệu quả hơn nhiều so trồng cây ăn trái, vấn đề quan trọng là phải chịu khó học hỏi kỹ thuật để cây không bị sâu bệnh và trổ hoa đúng tết mới bán được giá cao.
Sau thành công của mùa hoa trước, chị Loan chia sẽ kinh nghiệm về kỹ thuật trồng hoa cúc mâm xôi: "Trước khi đặt con giống xuống chậu, trước đó 1 ngày trong chậu ( khoảng 1/3 chậu) mình chuẩn bị sẳn nguyên liệu như sơ dừa, tro trấu, phân bò, phân lân trộn đều và tưới nước ẩm ướt sau đó đặt con giống xuống, qua ngày sau mới tưới nước trở lại. 3 ngày sau khi đặt con giống xuống chậu, người trồng cúc bắt đầu sịt thuốc dưỡng rễ, dưỡng lá và ngắt cơi đọt lần thứ nhất. Cách 20 ngày ngắt cơi đọt 1 lần, ngắt đủ 5 lần cho đến khi cây trổ bông. Muốn cây phát triển tốt, ít bị sâu bệnh thường xuyên sịt dưỡng, 1 tuần sịt thuốc dưỡng 1 lần, sau đó 01 ngày tưới phân NPK 20-10-10 giúp cây phát triển tốt. Riêng về nước tới thời gian đầu có thể ngày tưới ngày nghỉ, nhưng khi cây phát triển tốt tưới nước mỗi ngày"...
Ngoài địa phương xã Tân Thiềng, một số nông dân xã Long Thới, cũng chọn thời điểm xuống giống vào khoảng mùng tháng 6 âm lịch, không khí nơi đây bắt đầu nhộn nhịp, nhất là khu vực ấp An Hòa, Hòa An dọc theo quốc lộ 57 không khí của mùa xuân mới cũng hé dần. Riêng gia đình chị Đoàn Thị Chu , người có hơn 10 năm tham gia làm hoa cúc tết những ngày qua chỉ mới đóng giàn, mua sắm giỏ tre, chuẩn bị con giống chờ đến ngày 24 tháng 6 âm lịch mới xuống giống. Cũng như các năm trước, chuẩn bị cho mùa hoa tết 2016 chị Chu đầu tư mua 01 ngàn con giống cúc mâm xôi, khoảng 300 cúc hà lan và vài trăm vạn thọ để trồng cho mùa hoa tết. Chị cho biết, mùa hoa tết 2015 vừa qua cũng như bà con trong xóm vườn cúc nhà chị bán được giá cao, thu nhập kha khá, năm nay tiếp tục với nghề hoa nở, chị hy vọng trời thương, thời tiết ổn định và thị trường tiêu thụ mạnh để những người trồng hoa dù có vất vả nhưng cũng có nguồn thu nhập kha khá đón tết.
Được biết nghề trồng hoa nở, trong đó có cúc mâm xôi tại xã Long Thới có mặt trên thị trường khá lâu nhưng phát triển mạnh khoảng 7,8 năm nay. Mỗi năm tại địa phương này có hơn 600 hộ tham gia làm hoa tết, chủ yếu là hoa nở, tập trung nhiều tại các ấp: An Hòa, Hòa An, An Quy, .... tổng sản phẩm hàng năm ước khoảng 230 sản phẩm. Chính nghề truyền thống này đã giúp cho đời sống của người dân xã Long Thới vươn lên rõ rệt, hộ khá giàu tăng và hộ nghèo giảm. /.
Trúc Ly | 10/08/2015 8:55 SA | Đã ban hành | | Huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ khuyến nông năm 2015 | Huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ khuyến nông năm 2015 | Huấn luyện kỹ năng nghiệp vụ khuyến nông năm 2015 | Hiện nay trong xu thế hội nhập, khoa học kỹ thuật luôn tiến bộ, đổi mới từng ngày, đòi hỏi đội ngũ cán bộ kỹ thuật, giảng viên tham gia giảng dạy các lớp tập huấn khuyến nông phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trao dồi kinh nghiệm, thường xuyên tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Chính vì vậy, hàng năm Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Bến Tre tổ chức các lớp tập huấn ToT về kỹ năng khuyến nông, những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản từ nguồn kinh phí Trung ương. Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Bến Tre cử cán bộ và cộng tác viên tham dự các khóa đào tạo ngắn hạn nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng được nhu cầu thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp,xây dựng nông thôn mới.

Các học viên tham gia lớp tập huấn nghiệp vụ chụp ảnh lưu niệm. Ảnh: Tác giả.
Năm 2015, thực hiện theo kế hoạch phân bổ của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia về việc “Thực hiện chương trình đào tạo huấn luyện khuyến nông” Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Bến Tre đã tổ chức 3 lớp tập huấn như sau: 1 lớp tập huấn cho khuyến nông viên với nội dung “ Kỹ năng chuẩn bị và trình bày lớp tập huấn khuyến nông phòng và điều trị bệnh tiêu chảy trên gia súc gia cầm; 2 lớp tập huấn cho Cán bộ tham gia công tác khuyến nông và cộng tác viên nội dung “Kỹ năng chuẩn bị và trình bày lớp tập huấn khuyến nông kỹ thuật canh tác bưởi da xanh” và lớp “ Kỹ năng quản lý nhóm hợp tác và kỹ thuật nuôi tôm càng xanh theo VietGap” lớp này tổ chức cho các huyện có các xã thuộc vùng ngọt hoá gắn với đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển đổi cây trồng vật nuôi tỉnh Bến Tre. Nội dung bài giảng đi sâu vào thực tế như các bệnh về trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản và cách phòng trị; tổng số học viên được đào tạo là 89 người trong đó gồm 59 cộng tác viên và 30 cán bộ tham gia công tác khuyến nông. Thời gian đào tạo là 3 ngày/1 khoá (2,5 ngày lý thuyết, thực hành, 0,5 ngày tham quan hiện trường). Học viên được đào tạo theo phương pháp gắn lý thuyết với thực hành, có tài liệu đọc, nghiên cứu, nghe giảng, thảo luận nhóm và tham quan học tập thực tế tại hiện trường. Địa điểm tổ chức cấp huyện và tỉnh với tổng kinh phí thực hiện là 79,500.000 đồng.
Các lớp tập huấn TOT chuyên ngành với mục đích đào tạo các tập huấn viên về phương pháp khuyến nông và kỹ thuật. Việc lồng ghép nghiệp vụ và kỹ thuật chuyên ngành trong lớp tập huấn khuyến nông được đa số học viên và các đơn vị tham gia tập huấn đồng thuận cao. Các lớp này bước đầu mang lại hiệu quả tích cực, tiết kiệm thời gian, chi phí,...
Trung tâm cũng chủ động được nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn tốt, đúng chuyên ngành, được đào tạo bài bản về kỹ năng khuyến nông doTrung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức, giảng dạy cả 3 lớp tập huấn về Kỹ năng khuyến nông.
Thông qua các lớp tập huấn, giúp cho học viên tiếp thu cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới, đồng thời rèn luyện, trao dồi kỹ năng nghiệp vụ. Học viên sau khi được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn, được đào tạo kỹ năng khuyến nông, từ đó học viên có thể chủ động xây dựng được chương trình, kế hoạch bài giảng và đồng thời biết phương pháp, kỹ năng giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho bà con nông dân, mang lại chất lượng cao cho quá trình tác nghiệp của học viên sau này.
Ngô Thị Thu Trang
Trung tâm KN-KN Bến Tre | 27/10/2015 8:40 SA | Đã ban hành | | Chợ Lách hơn 20 ngàn lượt nông dân tham dự các lớp tập huấn chuyển giao khoa học-kỹ thuật | Chợ Lách hơn 20 ngàn lượt nông dân tham dự các lớp tập huấn chuyển giao khoa học-kỹ thuật | <p style="text-align: justify;" />Chuyển giao khoa học kỹ thuật là một trong những biện pháp quan trọng góp phần cho phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi ở huyện Chợ Lách...
|
Chuyển giao khoa học kỹ thuật là một trong những biện pháp quan trọng góp phần cho phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi ở huyện Chợ Lách nâng lên về số và chất.
Nông dân nắm vững các quy trình canh tác sẽ mạnh dạng ứng dụng đầu tư và mạnh dạng chuyển đổi cơ cấu cây trồng ngày càng hiệu quả. Tính từ năm 2010 đến năm 2013, Hội Nông dân huyện Chợ Lách phối hợp cùng các Sở, ngành tỉnh, các công ty phân bón, thuốc Bảo vệ thực vật tổ chức 521 lớp tập huấn và hội thảo chuyển giao KHKT, cho hơn 20 ngàn lượt cán bộ, hội viên, nông dân tham dự.
Nội dung xoay quanh các chuyên đề về: sản xuất trái cây theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, sử dụng phân thuốc theo nguyên tắc 4 đúng, sản xuất trái cây trong tình hình biến đổi khí hậu, khắc phục hiện tượng sượng trái sầu riêng, khắc phục vườn cây ăn trái trong mùa mưa lũ, quản lý bệnh chổi rồng trên cây nhãn, chăm sóc cây ăn trái, …
Từ chổ áp dụng các tiến bộ KHKT mới vào sản xuất giúp cho các vườn cây ăn trái của nông dân đạt năng suất chất lượng cao. Kết quả đó góp phần nâng cao đời sống cho nông dân./.
Trúc Ly | 05/11/2013 12:00 SA | Đã ban hành | | HỘI NGHỊ SƠ KẾT CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN CA CAO BỀN VỮNG VÀ LỄ TRAO CHỨNG CHỈ CA CAO UTZ CERTIFIED | HỘI NGHỊ SƠ KẾT CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN CA CAO BỀN VỮNG VÀ LỄ TRAO CHỨNG CHỈ CA CAO UTZ CERTIFIED | <p style="text-align: justify;" />Ngày 11/6/2012, huyện Châu Thành tổ chức hội nghị sơ kết chương trình phát triển ca cao bền vững và lễ trao chứng chỉ ca cao UTZ Certified. Đến dự có ông Tô Văn Huấn – Giám đốc dự án ca cao bền vững thuộc Cục trồng trọt Bộ NN và PTNT...
|
Ngày 11/6/2012, huyện Châu Thành tổ chức hội nghị sơ kết chương trình phát triển ca cao bền vững và lễ trao chứng chỉ ca cao UTZ Certified. Đến dự có ông Tô Văn Huấn – Giám đốc dự án ca cao bền vững thuộc Cục trồng trọt Bộ NN và PTNT, ông Phạm Văn Tám – đại diện tổ chức UTZ tại VN, ông Lê Quang Vịnh – Phó Chủ tịch UBND huyện Châu Thành.
Vào năm 2000, trường Đại học Nông Lâm TPHCM đưa cây giống ca cao về trồng thử nghiệm xen trong vườn dừa và vườn cây ăn trái tại xã An Khánh và xã Phú Đức. Qua thời gian trồng thử nghiệm cho thấy: điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tại Châu Thành thích hợp trồng xen cây ca cao. Đến nay, toàn huyện có trên 3 ngàn ha diện tích trồng ca cao. Trong đó có gần 2 ngàn ha đang cho trái. Năng suất bình quân khoảng 5.200kg trái tươi/ha/ năm, tương đương 500 kg hạt khô/ha. Những giống ca cao được trồng chủ yếu gồm: TD3, TD5, TD6, TD7, TD14…được trồng tại các xã như: An Khánh, Quới Sơn, Phú Túc, Phú Đức, Tường Đa…Hiện toàn huyện có 21 câu lạc bộ sản xuất ca cao theo tiêu chuẩn UTZ, có 471 nông dân tham gia, tương ứng trên 289 ha. Các nông hộ trồng ca cao theo chứng nhận UTZ đã mang lại hiệu quả cao không những về năng suất, giá cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường. Thời gian qua, được sự hỗ trợ của các sở, ngành, các tổ chức, nông dân huyện Châu Thành được hỗ trợ về cây giống, đào tạo kỹ thuật từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến ca cao… Trong năm 2012, huyện Châu Thành tiếp tục phát triển trồng mới 250 ha cây ca cao từ nguồn vốn hỗ trợ dự án 10 ngàn ha ca cao của tỉnh. Dự kiến, huyện Châu Thành tiếp tục đầu tư phát triển trồng xen cây ca cao đến năm 2015 là 4 ngàn ha.
Dịp này, UBND huyện trao 6 giấy khen cho các nông dân tham gia tốt chương trình phát triển ca cao chứng nhận UTZ và Công Ty TNHH 1 thành viên thu mua ca cao Thành Hưng Thịnh đã được trao chứng chỉ ca cao UTZ Certified.
TRÚC LAN | 15/06/2012 12:00 SA | Đã ban hành | | Chợ Lách rộn rịp mùa hoa kiểng tết | Chợ Lách rộn rịp mùa hoa kiểng tết | Cứ vào dịp cuối năm, người dân làng hoa kiểng Chợ Lách (Bến Tre) lại tất bật chuẩn bị mùa hoa tết... |
Theo Thanh Niên Online
Cứ vào dịp cuối năm, người dân làng hoa kiểng Chợ Lách (Bến Tre) lại tất bật chuẩn bị mùa hoa tết.
|
Cúc sao băng - giống hoa mới của làng hoa kiểng Chợ Lách |
Đa dạng chủng loại
H.Chợ Lách từng là nơi sản xuất cây giống và cây cảnh lâu đời nhất miền Tây. Trước kia, làng hoa tập trung ở Cái Mơn (nay là xã Vĩnh Thành) và hiện đã mở rộng sang nhiều xã khác như Hưng Khánh Trung, Sơn Định... Ông Trần Văn Đủ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Thành, cho biết toàn xã có 2.700 hộ/4.430 hộ trồng hoa kiểng, mỗi vụ tết sản xuất trên 2 triệu sản phẩm các loại, trong đó mai vàng chiếm trên 40%.
Hơn nửa thế kỷ qua, nhiều thế hệ trồng hoa kiểng ở Chợ Lách đã nối tiếp nhau sưu tầm, chọn lọc, nhân giống và định hình các chủng loại hoa kiểng đặc sắc ở miền Tây. Trước đây, đa số hoa kiểng ở Chợ Lách là giống bản địa nhưng hiện nay, do thị hiếu khách hàng và sức ép của nền kinh tế thị trường nên nhiều nhà vườn phải liên tục nhập các giống mới từ nước ngoài. Tết Giáp Ngọ này, ngoài những mặt hàng chủ lực như mai vàng, mai chiếu thủy, tắc, cúc mâm xôi, bông trang, bông giấy, kiểng lá, nhà vườn còn trồng thêm các loại phát lộc hoa, đại phát tài, cát tường, mai vạn phúc…
Chị Đỗ Thị Thúy Hoa (ở xã Vĩnh Thành) cho biết nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, 2 năm nay chị tập trung đầu tư vào kiểng treo với nhiều chủng loại đặc sắc như hoa dừa, dạ ý thảo, môi son, son tím, son hồng, cúc sao băng… Các loại cây này chủ yếu thuộc họ thân thảo hoặc dây leo, có tàn nhánh mềm mại, buông rũ là đà, nở hoa liên tục, màu sắc đa dạng. Kiểng treo được chia làm 3 loại: cây trồng trong chậu, trong vỏ dừa và vỏ ốc. Chị Hoa đang chuẩn bị tung ra thị trường tết 5.000 chậu với giá từ 30.000 - 40.000 đồng/chậu.
Một số cơ sở hoa kiểng ở Chợ Lách còn tập trung khai thác các loài kiểng thủy canh, thích hợp để trang trí trong nhà như phú quý, vạn lộc, cung điện vàng, cung điện hoàng hậu… Ông Nguyễn Văn Công, một nghệ nhân chuyên về kiểng thú và kiểng hình, cho biết tết này ông nhận được hợp đồng làm 20 cặp ngựa, mỗi cặp có giá từ 1 - 3 triệu đồng. Cũng trong năm nay, nhiều nghệ nhân tiếp tục tạo dáng kiểng cho một số loài cây ăn trái quen thuộc như vú sữa, bưởi, quýt, đu đủ… khiến cho thị trường hoa kiểng càng thêm đa dạng.
|
Kiểng hình con ngựa (hàng đầu) cung ứng cho năm Giáp Ngọ
|
Khởi động thị trường sớm
Tết là mùa ăn nên làm ra nên hầu hết người trồng hoa kiểng tập trung toàn lực đầu tư vào dịp này. Bình quân mỗi nhà vườn trồng trên 2.000 chậu, sau vụ tết có thể thu lời từ vài chục đến cả trăm triệu đồng. Rút kinh nghiệm từ những vụ trước, người trồng hiện nay rất quan tâm đến việc chọn giống và cân nhắc số lượng cây trồng để tránh tình trạng “hàng nhiều dội chợ”.
Chị Huỳnh Thị Phượng (ở xã Long Thới) đang trồng 2.000 giỏ cúc mâm xôi cho biết nhờ thời tiết thuân lợi nên chị rất yên tâm, không phập phồng lo sợ như tết năm trước. Theo nhiều chủ vườn ở Chợ Lách, thương lái khởi động thị trường hoa kiểng Tết Giáp Ngọ sớm hơn mọi năm, mới giữa tháng 11 âm lịch đã có 40% sản phẩm như mai vàng và kiểng được tiêu thụ, tuy giá cả có nhích hơn khoảng 20%. Nếu như những năm trước, thương lái miền Tây phải ra tận Bình Định, Phú Yên để mua mai thì năm nay, thương lái miền ngoài lại vào Chợ Lách mua mai chở ngược ra, vì miền Trung vừa trải qua đợt bão lũ nặng nề khiến nguồn cây kiểng bị hư hao nhiều.
Bài, ảnh: Thiên Lộc | 25/12/2013 12:00 SA | Đã ban hành | | Làng nghề cá khô Bình Thắng nhộn nhịp vào xuân | Làng nghề cá khô Bình Thắng nhộn nhịp vào xuân | <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/nam2013/thang2/08022013_03.gif" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;"> </p> <p>Trong những ngày này làng nghề cá khô xã Bình Thắng – huyện Bình Đại rất nhộn nhịp với những chiếc xe tấp nập tới lấy hàng mang đi phục vụ nhân dân khắp trong dịp tết Nguyên đán Qúy Tỵ...</p>
|
Trong những ngày này làng nghề cá khô xã Bình Thắng – huyện Bình Đại rất nhộn nhịp với những chiếc xe tấp nập tới lấy hàng mang đi phục vụ nhân dân khắp trong dịp tết Nguyên đán Qúy Tỵ.
|
Làm cá khô ở Bình Thắng-Huyện Bình Đại
|
Hiện nay Làng nghề cá khô xã Bình Thắng có 26 hộ làm nghề chế biến cá khô, các hộ này sản xuất quanh năm, nhưng tập trung nhiều nhất từ tháng 12 đến tết Nguyên đán. Trung bình mỗi năm làng nghề sản xuất khoảng 3.000 tấn sản phẩm, doanh thu gần 2 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 250 lao động ở địa phương và các xã lân cận.
Theo bà con ngư dân xã Bình Thắng cho biết, nghề chế biến cá khô ở xã Bình Thắng có cách đây hàng chục năm, bước đầu làm nhỏ lẽ, tiêu thụ chủ yếu các xã trong huyện, dần dần phát triển lớn hơn và được tiêu thụ nhiều nơi trong và ngoài tỉnh. Hầu hết những sản phẩm khô ở Bình Thắng đều làm thủ công và phơi dưới ánh nắng mặt trời. Gần đây các hộ chế biến cá khô bắt đầu chú ý tới việc đăng ký kiểu dáng công nghiệp và nhản hiệu hàng hóa để mở rộng thị trường tiêu thụ như khô cá đù một nắng, khô mực, khô cá đuối… các loại khô này rất nổi tiếng và được nhiều nơi ưa chuộng.
Nhằm bảo tồn và phát triển làng nghề, Trung tâm Khuyến công và Phát triển công nghiệp thuộc Sở Công Thương tỉnh đã hổ trợ 2 thiết bị dùng để chế biến cá khô cho hộ ông Trần văn Lượng và bà Nguyễn thị Em cùng ngụ tại ấp 2, gồm 1 lò sấy khô bằng inox, máy nước nóng năng lượng mặt trời, 3 bồn rữa cá, 12 giàn phơi và 2 bàn làm cá bằng inox. Với những phương tiện này đã tạo điều kiện cho hộ ông Lượng, bà Em từng bước cải tiến kỹ thuật và sản xuất ra những sản phẩm sạch hơn đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Theo chị Đinh thị Thủy, chủ cơ sở sản xuất cá khô xã Bình Thắng cho biết: Gia đình chị đã có truyền thống làm khô mấy đời, nay chị tiếp tục nối nghiệp nghề này. Hiện tại mỗi ngày cơ sở chị có từ 15 đến 20 lao động sản xuất đang tích cực làm việc để kịp giao các đơn đặt hàng Tết khắp nơi. Chị cho biết các công đoạn làm khô thấy rất đơn giản, nhưng để làm được khô đạt chất lượng thì phải qua rất nhiều công đoạn như: làm sạch, loại bỏ xương, ướp gia vị và đem phơi nắng. Trong đó công đoạn ướp gia vị rất quan trọng để tạo ra hương vị riêng của từng cơ sở và đây cũng là bí quyết để tạo ra sản phẩm cho khô cá đù, khô cá chỉ vàng, cá đuối ở Bình Thắng…Tết năm nay cơ sở chị dự kiến cung cấp khoảng 10 tấn khô các loại cho thị trường trong và ngoài tỉnh.
Nhưng xem ra tết năm nay khô rất hút hàng và giá cả sẽ tăng cao. Nguyên nhân do thời gian qua biển động tình hình khai thác đánh bắt thủy sản gặp nhiều khó khăn, nên sản lượng không đủ cung ứng cho nhu cầu. Hiện do thiếu nguyên liệu nhiều cơ sở làm khô chỉ đáp ứng khỏang 50 đến 60|% công suất. Tuy nhiên, tại làng nghề cá khô Bình Thắng vẫn diễn ra không khí nhộn nhịp, các cơ sở chế biến cá khô tất bật chạy lo nguyên liệu để kịp giao hàng phục vụ tết Qúy Tỵ năm nay.
KIM YẾN | 08/02/2013 12:00 SA | Đã ban hành | | Chợ Lách bị sạt lở nhiều tuyến đê bao | Chợ Lách bị sạt lở nhiều tuyến đê bao | <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/thang10-2011/10102011_02.jpg" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;"> </p> <p>Vào khoảng 5 giờ sáng ngày 28/9/2011, do triều cường kết hợp với mưa lớn làm mực nước dâng cao đột biến gây tràn và sạt lở nhiều đoạn đê bao tại các khu vực cồn của huyện Chợ Lách, gây thiệt hại về kinh tế và đời sống của người dân...</p>
|
Vào khoảng 5 giờ sáng ngày 28/9/2011, do triều cường kết hợp với mưa lớn làm mực nước dâng cao đột biến gây tràn và sạt lở nhiều đoạn đê bao tại các khu vực cồn của huyện Chợ Lách, gây thiệt hại về kinh tế và đời sống của người dân.
Theo khảo sát bước đầu, huyện Chợ Lách có các đoạn đê bao bị sạt lở như: Đê bao tổ 9 ấp Phú Bình xã Vĩnh Bình; Đê bao ấp Sơn Châu, vị trí nhà ông Tư Hướng giáp sông Cổ Chiên gần bến phà cái Kè; Vị trí cống Cầu Đình, cầu 2/9 tuyến đê bao Rạch Hào đến nhà Trưởng ấp Phụng Châu xã Sơn Định và đoạn đê bao tại khu vực Cồn Lớn thuộc ấp Bình An xã Hòa Nghĩa- Công trình tường kè Chợ Lách đang trong giai đoạn thi công.
|
Người dân gia cố đê bao phòng sạt lở đê.
|
Tổng chiều dài các đoạn đê bao bị sạt lở ước trên 320 mét, gây ngập trên 200 héc ta diện tích vườn cây ăn trái, hoa màu và diện tích nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra các đê bao cục bộ của người dân tự thực hiện cũng bị sạt lở ở nhiều vị trí, diện tích ảnh hưởng trên 1.500 héc ta.
Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn huyện Chợ Lách, các xã -thị trấn cùng bà con nhân dân đã khẩn trương khắc phục sự cố nhằm giảm thiểu thiệt hại về tài sản cho nhân dân. Trong đó các biện pháp được tiến hành như: dùng kobe, xáng dây gia cố đoạn đê bao bị sạt lở và gia cố các vị trí lân cận; lực lượng địa phương và người dân tiến hành tôn cao các đê bao, phòng tránh tràn vỡ đê trong những ngày tới.
Theo dự báo, từ nay đến những ngày tới do tình hình mưa bão kết hợp thủy triều, mực nước sẽ dâng cao, Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn huyện Chợ Lách yêu cầu bà ban con nhân dân theo dõi diễn biến tình hình mưa bão để có biện pháp ứng phó kịp thời tránh gây tổn thất về người và tài sản của nhân dân./.
Trúc Ly | 10/10/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Bình Đại: Năm 2011 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh | Bình Đại: Năm 2011 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh | <p />Năm 2011 ngoài phát triển diện tích nuôi tôm sú, nông dân Bình Đại tập trung nuôi tôm thẻ chân trắng...
|
Năm 2011 ngoài phát triển diện tích nuôi tôm sú, nông dân Bình Đại tập trung nuôi tôm thẻ chân trắng. Toàn huyện có gần 1.680 ha nuôi tôm thẻ, tăng trên 500 ha so với năm 2010, tập trung ở các xã Định Trung, Đại Hòa Lộc, Bình Thắng, Thị Trấn, Thạnh Trị… Qua thu hoạch năng suất đạt từ 8 đến 10 tấn/ha.
Do phong trào nuôi tôm thẻ phát triển mạnh, các ngành chức năng của tỉnh, huyện tăng cường kiểm tra, quản lý, hướng dẫn nông dân nuôi trong vùng quy hoạch, hướng dẫn sử lý môi trường, dịch bệnh. Đồng thời tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo chuyển giao khoa học kỷ thuật cho nông dân và xây dựng các mô hình trình diễn nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng sử dụng chế phẩm sinh học nhằm giảm giá thành tăng lợi nhuận.
Từ hiệu quả của phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng, giúp nông dân Bình Đại có thể thay thế cho những vùng nuôi tôm sú đang gặp khó khăn, từng bước đa dạng hóa đối tượng nuôi thủy sản có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhà.
Đông Ngân | 06/10/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Bí thư Tỉnh ủy dự họp mặt ngư dân đánh bắt thủy sản xã Bình Thắng | Bí thư Tỉnh ủy dự họp mặt ngư dân đánh bắt thủy sản xã Bình Thắng | <p style="text-align: justify;" />Ngày 16/9/2011 tại Uỷ ban nhân dân xã Bình Thắng ông Nguyễn Thành Phong – Bí thư Tỉnh ủy hợp mặt cùng hơn 70 ngư dân xã Bình Thắng, huyện Bình Đại...
|
Ngày 16/9/2011 tại Uỷ ban nhân dân xã Bình Thắng ông Nguyễn Thành Phong – Bí thư Tỉnh ủy hợp mặt cùng hơn 70 ngư dân xã Bình Thắng, huyện Bình Đại.
Xã Bình Thắng hiện có 602 tàu khai thác hải sản, trong đó có 527 tàu khai thác xa bờ, sản lượng khai thác trong năm 2010 là 40.520 tấn, đạt 115% kế hoạch năm. Riêng 6 tháng đầu năm 2011 sản lượng khai thác được 19.350 tấn, đạt 42,88% kế hoạch năm, tăng 2.800 tấn so cùng kỳ. Ngoài tập trung khai thác ngư dân Bình Thắng còn đầu tư cải hoán và đóng mới tàu khai thác xa bờ, năm 2010 ngư dân Bình Thắng đã đầu tư đóng mới 52 tàu và 6 tháng đầu năm 2011 đóng mới 24 tàu. Tuy nhiên trong những tháng đầu năm 2011 do ảnh hưởng giá xăng dầu và các loại ngư lưới cụ đều tăng cao, cộng với thời tiết không thuận lợi nên sản lượng khai thác tuy có tăng nhưng không bù nổi chi phí cho mỗi chuyến ra khơi, nên hầu hết bà con ngư dân không có lợi nhuận, thậm chí có tàu bị thua lỗ.
Tại buổi họp mặt, bà con ngư dân đã phát biểu những vấn đề khó khăn trong quá trình khai thác hải sản thời gian qua, đồng thời kiến nghị Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ dầu cho các tàu khai thác xa bờ, tạo điều kiện cho ngư dân tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để cải hoán và đóng mới tàu cá, miễn giảm thuế khai thác thủy sản, đầu tư mở rộng Cảng cá Bình Đại, nhanh chóng hoàn thành công trình ụ tránh bão cho tàu thuyền, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhất là giao thông nông thôn.
Ông Nguyễn Thành Phong – Bí thư Tỉnh ủy đã chia sẽ những khó khăn của bà con ngư dân, đồng thời chỉ đạo huyện Bình Đại và các Sở ngành liên quan tạo mọi điều kiện cho ngư dân khai thác tốt tiềm năng kinh tế thủy sản, thành lập các tổ, nhóm hợp tác khai thác xa bờ nhằm hỗ trợ nhau trong khai thác hải sản trên biển cũng như bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới biển; Đẩy mạnh công tác dạy nghề cho ngư dân, nhất là các thuyền viên, đổi mới cải tiến phương tiện khai thác nhằm giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận cho ngư dân; Tập trung công tác tuyên truyền để ngư dân thông suốt không vi phạm chủ quyền của các nước trong khu vực.
Dịp nầy UBND huyện Bình Đại đã tặng giấy khen cho 2 tập thể và 8 cá nhân có thánh tích xuất sắc trong khai thác hải sản.
Đông Ngân | 30/09/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Bình Đại vào vụ thu hoạch tôm | Bình Đại vào vụ thu hoạch tôm | <p style="text-align: justify;" />Năm nay bà con nông dân huyện Bình Đại đã thả nuôi tôm biển thâm canh và bán thâm canh được 4.250 ha, trong đó có 1.685 ha tôm thẻ chân trắng, tập trung ở các xã: Đại Hòa Lộc, Thạnh Trị, Thị Trấn, Bình Thới, Định Trung, Bình Thắng, Thạnh Phước…
|
Năm nay bà con nông dân huyện Bình Đại đã thả nuôi tôm biển thâm canh và bán thâm canh được 4.250 ha, trong đó có 1.685 ha tôm thẻ chân trắng, tập trung ở các xã: Đại Hòa Lộc, Thạnh Trị, Thị Trấn, Bình Thới, Định Trung, Bình Thắng, Thạnh Phước… Sau thời gian chăm sóc, đến nay nông dân đã thu hoạch được 2,668 ha, trong đó có 1.140 ha tôm thẻ chân trắng, Năng suất bình quân nuôi thâm canh 5 tấn /ha, nuôi quãng canh 2,5 tấn/ha. Sản lượng 12.194 tấn, đạt 87,4% kế hoạch năm.
Vụ tôm nuôi năm nay, đầu vụ gặp khó khăn do ảnh hưởng thời tiết, môi trường nuôi không ổn định, nhưng nhờ sự tập trung quản lý tốt vụ nuôi, nông dân chấp hành nghiêm lịch thời vụ thả giống, cộng với ứng dụng khoa công nghệ trong sản xuất nên phần lớn các hộ nuôi đều đạt năng suất cao. Mặt khác giá tôm thương phẩm năm nay luôn ổn định ở mức khá cao nên các hộ nuôi đều có lợi nhuận, những hộ thả nuôi nhiều lợi nhuận hàng trăm triệu đồng.
Để đảm bảo vụ tôm nuôi thâm canh và bán thâm canh trong thời gian tới được an toàn, hiệu quả, bền vững, thực hiện công văn số 3740/UBND-KTN của UBND tỉnh, UBND huyện Bình Đại đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, UBND các xã, thị trấn phối hợp với Mặt Trận Tổ quốc và các đoàn thể cùng cấp tuyên truyền thực hiện nghiêm về việc tạm ngưng vụ nuôi tôm biển năm 2011 đối với hình thức nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2011 đến khi có thông báo mới của tỉnh và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh tôm.
Đông Ngân | 26/09/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Liên kết để phát triển bền vững nghề nuôi cá tra | Liên kết để phát triển bền vững nghề nuôi cá tra | <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/thang09-2011/2692011_01.jpg" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;" />Nhằm phát huy vai trò là người đại diện hợp pháp và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho cộng đồng người nuôi thủy sản ở các địa phương, Hiệp hội Thủy sản (HHTS) 9 tỉnh...
|
Nhằm phát huy vai trò là người đại diện hợp pháp và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho cộng đồng người nuôi thủy sản ở các địa phương, Hiệp hội Thủy sản (HHTS) 9 tỉnh, thành khu vực ĐBSCL gồm: Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh và Cần Thơ đã có cuộc họp tìm giải pháp phát triển bền vững cho nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL.
Ông Thái Văn Lai - Phó Chủ tịch HHTS Đồng Tháp, cho rằng: Các hiệp hội trước hết là liên kết đề nghị Chính phủ sớm cho thành lập Hiệp hội cá tra ĐBSCL. Đây xem như ngôi nhà chung của con cá tra bao gồm toàn chuỗi, từ sản xuất con giống đến xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Chỉ có người ở ĐBSCL mới có thể hiểu được đường đi nước bước, hiểu được khó khăn của con cá tra, thì mới có sự đồng cảm để chia sẻ lợi ích cũng như trách nhiệm. Đối với các hiệp hội, bây giờ tổ chức liên kết làm sao cho người nuôi và doanh nghiệp gặp gỡ, gần gũi nhau bằng hình thức hợp đồng tiêu thụ.

|
Nuôi và thu hoạc cá tra ở ĐBSCL
|
Tám tháng đầu năm 2011, diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL phát triển hơn 4.000ha, trong đó diện tích đã thu hoạch hơn 2.240ha với tổng sản lượng cá tra thu hoạch từ đầu năm đến nay đạt gần 700.000 tấn. Sản phẩm cá tra cũng đã xuất khẩu sang 131 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Để phát huy vai trò các HHTS vùng ĐBSCL, đòi hỏi Ban quản trị HHTS các tỉnh và các hội viên phải luôn luôn năng động, nhanh nhạy nắm bắt thị trường, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, đặc biệt là đẩy mạnh liên kết tìm tiếng nói chung trong hoạt động để tăng thêm nguồn lực đầu tư và năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Theo báo Công An Nhân Dân | 26/09/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Bình Đại: Tập huấn kiến thức nông dân bảo vệ môi trường trong chăn nuôi | Bình Đại: Tập huấn kiến thức nông dân bảo vệ môi trường trong chăn nuôi | <p style="text-align: justify;" />Ngày 12/9/2011, Hội nông dân huyện Bình Đại phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tổ chức lớp tập huấn “Kiến thức nông dân bảo vệ môi trường trong chăn nuôi” cho 186 cán bộ, hội viên nông dân ở 4 xã: Long Hòa, Long Định, Châu Hưng và Phú Thuận...
|
Ngày 12/9/2011, Hội nông dân huyện Bình Đại phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tổ chức lớp tập huấn “Kiến thức nông dân bảo vệ môi trường trong chăn nuôi” cho 186 cán bộ, hội viên nông dân ở 4 xã: Long Hòa, Long Định, Châu Hưng và Phú Thuận.
Nội dung lớp tập huấn gồm các quy định về bảo vệ môi trường đối với hoạt động chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bến Tre; Quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động chăn nuôi với những điều cấm, nguyên tắc và các yêu cầu đảm bảo trong việc bảo vệ môi trường đối với hoạt động chăn nuôi, cách xử lý chất thải và các thủ tục, hồ sơ xét duyệt bảo vệ môi trường; Phương pháp quản lý Nhà Nước về bảo vệ môi trường đối với hoạt động chăn nuôi; Các điều khoản thi hành của người có nghĩa vụ, quyền hạn trong việc quản lý, kiểm soát môi trường ở từng hộ gia đình. Ngoài ra, tại lớp tập huấn, cán bộ Phòng Tài nguyên và môi trường huyện đã triển khai đến các cán bộ, hội viên nông dân tình hình môi trường và hiện trạng môi trường ở nước ta hiện nay cùng một số chủ trương, chính sách trong việc bảo vệ môi trường trong chăn nuôi, nhất là các chủ trương, chính sách bảo vệ môi trường chăn nuôi ở khu dân cư.
Lớp tập huấn nhằm nâng cao kiến thức bảo vệ môi trường cho cán bộ, hội viên nông dân, góp phần giúp mỗi cán bộ, hội viên nông dân có ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường tại hộ gia đình để cùng chung tay xây dựng một môi trường ở địa phương ngày càng lành mạnh, từ đó hướng đến tạo điều kiện thuận lợi để các xã xây dựng xã nông thôn mới. Dự kiến, từ nay đến ngày 29/9/2011, Hội tiếp tục phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tổ chức 9 lớp tập huấn “Kiến thức bảo vệ môi trường” cho trên 300 cán bộ, hội viên nông dân ở các xã còn lại./.
Thanh Hương | 29/09/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Chợ Lách - Nhà vườn Phú Phụng lao đau vì giá chôm chôm xuống thấp | Chợ Lách - Nhà vườn Phú Phụng lao đau vì giá chôm chôm xuống thấp | <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/thang10-2011/10102011_01.jpg" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;" />Trước đây Chôm chôm được xem là cây thoát nghèo của nông dân xã Phú Phụng, hôm nay họ đang phải điêu đứng bởi trái chôm chôm hiện đã rớt giá ở mức kỷ lục 1.500- 2.000đ/ký...
|
Trước đây Chôm chôm được xem là cây thoát nghèo của nông dân xã Phú Phụng, hôm nay họ đang phải điêu đứng bởi trái chôm chôm hiện đã rớt giá ở mức kỷ lục 1.500- 2.000đ/ký. Khoảng 1 tuần nay thương lái hầu như vắng bóng tại các vườn.
Toàn xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách có hơn 400 héc ta diện tích đất trồng chôm chôm Java, tại 900 hộ dân, tập trung nhiều tại ấp Phụng Đức B, Phụng Đức A và rãi đều ở các ấp còn lại. Năng suất hàng năm đạt từ 25-35 tấn/héc ta. Riêng vụ lỡ năm 2011(khoảng tháng 8-9 âm lịch), toàn xã có 300 hộ dân có vườn chôm chôm cho trái với diện tích hơn 200 héc ta, đạt sản lượng trên 5,5 ngàn tấn. Với sản lượng này, nếu giá ổn định như các tháng trước đây thì nông dân trồng chôm chôm ở xã Phú Phụng có thu nhập hàng tỷ đồng.
Tuy nhiên, hiện tại giá chôm chôm Java ở xã Phú Phụng trong khoảng 1 tuần trở lại đã rớt ở mức kỷ lục khoảng 1.500-2 ngàn đồng/ký. Thậm chí có nhiều vườn mời gọi nhưng thương lái không đến.
Ông Nguyễn Văn Ánh Tùng, ấp Phụng Đức B, là thành viên tổ liên kết sản xuất chôm chôm theo tiêu chuẩn Global GAP, ông có 4 công đất trồng chôm chôm Java, mỗi năm thu hoạch hơn 12 tấn trái, trừ đi chi phí còn lãi trên 80 triệu đồng. Vụ lỡ năm nay, vườn chôm chôm của ông đang chín rộ, những ngày qua ông đứng ngồi không yên, tâm trạng phập phòng lo lắng và mong ngóng thương lái đến mua nhưng vẫn không thấy. Ông Tùng cho biết: “Vườn chôm chôm của tôi hiện chín khá nhiều, nhưng đến nay chỉ bán được 1/3. Tôi cũng là thành viên của tổ liên kết sản xuất chôm chôm theo tiêu chuẩn Gloabal Gap, trong các ngày qua vườn của tôi chỉ được công ty đến thu mua 1 lần khỏang 700 ký, còn hiện tại không có thương lái nào đến mua, tôi rất lo”.
|
Chôm chôm sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP trúng mùa nhưng giá xuống thấp.
|
Không riêng gì chôm chôm Java bị rớt giá trầm trọng, mà đối với chôm chôm đường và chôm chôm thái ở Phú Phụng cũng có chung hoàn cảnh, nhiều nhà vườn cảm thấy rất lo lắng trước tình cảnh này. Hiện tại giá chôm chôm đường đang dao dộng từ 5-7 ngàn đồng/ký.
Ông Phan Văn Măng- ấp Phụng Đức B- xã Phú Phụng, có 2.800 mét vuông đất trồng cây chôm chôm đường, đến nay được 10 năm, cây còn nhỏ mỗi năm thu hoạch từ 3-4 tấn, trừ đi chi phí kiếm được vài chục triệu đồng. Riêng mùa vụ năm nay, khi chôm chôm đậu trái, ông thấy phấn khởi hơn vì trúng vụ, nhưng không ngờ giá lại xuống quá thấp. Nữa tháng nay, vườn chôm chôm đã chín rộ nhưng thương lái không mua, ông cảm thấy lo lắng cho vườn chôm chôm của mình, không biết sẽ ra sao, ông cho biết: “Mấy ngày qua tôi cảm thấy rất lo lắng, chôm chôm bán không được, mỗi ngày mỗi chăm sóc, tưới nước không đủ trái sẽ không lớn, vụ này xem như thất bại”.
Mỗi năm chôm chôm chỉ thu hoạch một vụ, ngoài tốn công chăm sóc, người trồng chôm chôm phải chi trả từ nhiều nguồn chi phí cho việc bón phân, đậy gốc và thuê mướn nhân công… Nhưng với giá chôm chôm hiện tại không đủ chi trả cho tiền thuê mướn, mùa vụ năm nay xem như mất trắng.
Điệp khúc trúng mùa- rớt giá, luôn là vòng lẩn quẩn không lối thoát cho người nông dân. Trong những năm qua các ngành chức năng luôn khuyến khích người dân trồng chuyên canh theo từng vùng, xử lý cho cây ra trái rãi vụ không tập trung vào những vụ chính… Đồng thời khuyến khích người dân tham gia vào mô hình tổ liên kết, nhằm tạo ra sản phẩm đồng bộ có chất lượng, an toàn theo tiêu chuẩn GAP, từ đó có thể cạnh trạnh cùng với các địa phương trong và ngoài nước.
Thế nhưng với địa phương xã Phú Phụng thời gian qua được sự quan tâm hổ trợ của các ngành các cấp, xã đã thành lập tổ liên kết sản xuất và tiêu thụ chôm chôm theo tiêu chuẩn Global GAP, có 36 hộ tham gia và được cấp giấy chứng nhận.
Tổ liên kết sản xuất chôm chôm theo tiêu chuẩn Global GAP, hiện có 4/36 hộ có vườn chôm chôm bước vào vụ thu hoạch, thế nhưng sản lượng để xuất ra thị trường hiện tại còn quá ít, người có trách nhiệm trong tổ lẫn thành viên cảm thấy rất lo lắng: “Mong sao ngành cấp trên có giải pháp để giúp nông dân ổn định hơn trong các mùa vụ tới”, ông Đinh Tấn Nghiệm- chủ tịch Hội Nông dân xã Phú Phụng chia sẽ.
Tình cảnh giá chôm chôm như hiện nay, không chỉ riêng gì nông dân xã Phú Phụng mà hầu hết những người trồng chôm chôm ở huyện Chợ Lách đang cảm thấy lo âu. Bởi cây chôm chôm đang chiếm diện tích khá nhiều, hơn 30% tổng diện tích cây ăn quả trong toàn huyện. Vậy đâu là lời giải để giúp cho nông dân thoát khỏi vòng vây được mùa mất giá, khiến cho bà con nông dân chưa yên tâm sản xuất, chạy theo phong trào trồng hết cây này rồi chặt bỏ để trồng cây khác, làm mất tính ổn định về sản lượng cây trái ở địa phương Chợ Lách, vốn nổi tiếng là vương quốc của trái cây./.
Trúc Ly | 10/10/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Bí thư Tỉnh ủy khảo sát mô hình sản xuất và xuất khẩu chôm chôm theo tiêu chuẩn Global GAP tại huyện Chợ Lách | Bí thư Tỉnh ủy khảo sát mô hình sản xuất và xuất khẩu chôm chôm theo tiêu chuẩn Global GAP tại huyện Chợ Lách | <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/thang09-2011/3092011_02.jpg" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;"> </p> <p>Ngày 15/9/2011, Bí thư Tỉnh uỷ Bến Tre Nguyễn Thành Phong dẫn đầu đoàn công tác của Tỉnh uỷ đến huyện Chợ Lách khảo sát mô hình sản xuất và đóng gói xuất khẩu chôm chôm theo tiêu chuẩn GlobalGAP...</p>
|
Ngày 15/9/2011, Bí thư Tỉnh uỷ Bến Tre Nguyễn Thành Phong dẫn đầu đoàn công tác của Tỉnh uỷ đến huyện Chợ Lách khảo sát mô hình sản xuất và đóng gói xuất khẩu chôm chôm theo tiêu chuẩn GlobalGAP.

|
Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thành Phong khảo mô hình đóng gói xuất khẩu Chôm chôm theo tiêu chuẩn Global GAP tại huyện Chợ Lách.
|
Đoàn đã có buổi làm việc với Công ty TNHH xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu ở khu phố 4 thị trấn Chợ Lách. Bà Nguyễn Thị Hồng Thu - Giám đốc Công ty báo cáo với đoàn về tình hình kinh doanh của Công ty từ khi được cấp chứng nhận GlobalGAP. Theo đó, Công ty đã mở rộng thị trường sang các nước Châu Âu và Trung Đông bên cạnh thị trường truyền thống Trung Quốc. Hàng năm Công ty xuất khẩu khoảng 6.500 tấn chôm chôm và nhãn, trong đó chôm chôm khoảng 500 tấn/năm. Hiện nay Công ty đang khẩn trương chuẩn bị các điều kiện để xuất khẩu chôm chôm đạt tiêu chuẩn GlobalGAP sang thị trường Hoa Kỳ. Bà Thu cho biết thêm, trước đây khi thu mua chôm chôm của từng nhà vườn riêng lẻ để xuất khẩu thì khâu kiểm tra chất lượng chất lượng gặp nhiều trở ngại, nhưng bây giờ Công ty đã yên tâm về nguồn cung cấp chôm chôm đạt chuẩn quốc tế.
Sau đó, đoàn đến tham quan mô hình sản xuất chôm chôm theo tiêu chuẩn GlobalGAP của tổ liên kết sản xuất chôm chôm theo tiêu chuẩn GlobalGAP ở ấp Phụng Đức B, xã Phú Phụng. Tổ có 36 thành viên, với diện tích trồng chôm chôm khoảng 22,2ha. Nhiều nhà vườn là thành viên của tổ cho biết, từ khi sản xuất chôm chôm theo tiêu chuẩn GlobalGAP, năng suất vườn cây tăng cao, mẫu mã trái đẹp, chất lượng ngon, điều quan trọng là môi trường sản xuất được an toàn, bảo đảm sức khoẻ cho người tiêu dùng. Đồng thời, nhà vườn rất phấn khởi vì Công ty TNHH xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu cam kết thu mua chôm chôm cao hơn từ 15-20% so với giá thị trường và hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm.
Việt Cường | 30/09/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Nông dân xã Thừa Đức huyện Bình Đại trúng mùa sắn | Nông dân xã Thừa Đức huyện Bình Đại trúng mùa sắn | <p style="text-align: justify;" />Thừa Đức là xã có diện tích đất giồng trồng màu nhiều nhất của huyện Bình Đại, toàn xã có 293 ha, hàng năm nông dân trồng các loại màu như: Sắn, đậu phọng, dưa hấu, bắp…
|
Thừa Đức là xã có diện tích đất giồng trồng màu nhiều nhất của huyện Bình Đại, toàn xã có 293 ha, hàng năm nông dân trồng các loại màu như: Sắn, đậu phọng, dưa hấu, bắp…Những năm qua nguồn thu nhập từ cây màu đem lại khá cao, chỉ đứng sau nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Trong đó cây săn được coi là cây trồng chủ lực, vì sắn rất thích hợp với thổ nhưỡng ở đây nên dễ trồng và cho năng suất cao.
Vụ mùa năm nay nông dân Thừa Đức trồng trên 150 ha, sau gần 4 tháng chăm sóc nông dân đã đi vào thu hoạch, năng suất bình quân 50 tấn/ha. Đầu vụ giá bán từ 2.500 đến 3.000đ/kg, nhưng càng về cuối vụ giá củ sắn giảm đáng kể chỉ còn 1.200 đến 1.500đ/kg. Do đó các hộ thu hoạch sớm có lãi trên 5.000 triệu đồng/công. Còn các hộ thu hoạch muộn lợi nhuận giảm đi trên 50% do giá cả không ổn định. Đây cũng là nổi lo lâu nay của người nông dân “Vì được mùa mất giá - được giá mất mùa”.
Đông Ngân | 22/09/2011 12:00 SA | Đã ban hành | | Tín hiệu tốt từ ngành hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam | Tín hiệu tốt từ ngành hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam | <p style="text-align: justify;">Bộ Công nghiệp và Thương mại cho biết Việt Nam thu được 1,3 tỷ USD từ xuất khẩu thủy sản trong bốn tháng đầu năm nay, tăng 20,3 phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái .</p> <p style="text-align: justify;" />Tăng thu nhập đã được quy cho là giá tôm cao hơn. Năm ngoái, xuất khẩu tôm sú là mặt hàng duy nhất tăng 1,3 phần trăm trong khi sản phẩm hải sản khác đã giảm 6 phần trăm trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Các mặt hàng thuỷ sản có giá trị tăng chiếm hơn 40 phần trăm của tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, do đó ngăn ngừa sụt giảm từ một ngành công nghiệp .
|
Bộ Công nghiệp và Thương mại cho biết Việt Nam thu được 1,3 tỷ USD từ xuất khẩu thủy sản trong bốn tháng đầu năm nay, tăng 20,3 phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái .
Tăng thu nhập đã được quy cho là giá tôm cao hơn. Năm ngoái, xuất khẩu tôm sú là mặt hàng duy nhất tăng 1,3 phần trăm trong khi sản phẩm hải sản khác đã giảm 6 phần trăm trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Các mặt hàng thuỷ sản có giá trị tăng chiếm hơn 40 phần trăm của tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, do đó ngăn ngừa sụt giảm từ một ngành công nghiệp . Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu hải sản Việt Nam, tổng thư ký của Trương Đình Hòe cho biết giá tôm và năng suất sẽ là yếu tố quyết định của kim ngạch xuất khẩu của ngành trong năm nay, thêm rằng thị trường sẽ thấy tín hiệu đầy hứa hẹn.
Nhật Bản và Mỹ đã được xem các nhà nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam , chiếm 33 phần trăm tổng số tôm xuất khẩu của đất nước, tiếp theo là Hàn Quốc.
Tuy nhiên, Bộ cho biết kim ngạch xuất khẩu sẽ phải đối mặt khó khăn do thiếu nguyên liệu. Họ nói thêm rằng hiện nay năng suất tôm trong nước có thể đáp ứng 30-50 phần trăm nhu cầu nguyên liệu tại các doanh nghiệp chế biến hải sản đẩy giá của nó lên 30-40 phần trăm cao hơn năm ngoái. Các chuyên gia cho biết lần đầu tiên trong năm xuất khẩu tôm nuôi tụt thấp so với tiềm năng của nó.
Diện tích nuôi năm cuối cùng giảm mạnh từ 660.000 ha đến 548.000 ha. Họ nói thêm rằng kim ngạch xuất khẩu đã tăng gấp đôi trong khi diện tích vùng nuôi đã thấy phát triển chậm. Trong quý I năm nay, kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể. Tuy nhiên, năng suất nuôi chỉ tăng chỉ 6,1 phần trăm. Các công ty Chế biến nói rằng họ đã không thể chủ động trong việc quản lý nguyên liệu. Một số nhà máy bị khiếu nại chỉ được có thể mua 5-10 tấn tôm mỗi ngày mặc dù cần khoảng 60 tấn / ngày. Các doanh nghiệp cho biết sự thiếu đầu tư quy mô lớn do chi phí cao, dịch bệnh thường xuyên đã góp phần làm giảm diện tích các vùng nuôi.
Trong một nỗ lực để cải thiện xuất khẩu các sản phẩm hải sản khác, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu tìm kiếm thị trường mới bao gồm Brazil, Canada, Philippines, Uruguay, Algeria và Ukraine. Công ty Vina Miền Nam trong bốn tháng đầu năm nay xuất khẩu 3.000 tấn cá tra (cá da trơn ), với doanh thu $ 7.000.000. nhập khẩu của nó lớn nhất là Brazil, tiếp theo là Hà Lan, Mỹ và Đức. Kim ngạch xuất khẩu của Công ty Thực phẩm Sao Ta (Fimex Việt Nam) cũng tăng 25 phần trăm so với cùng kỳ năm trước do sự mở rộng của nó vào thị trường mới. Hồ Quốc Lực, Chủ tịch và Tổng giám đốc của công ty cho biết xuất khẩu hơn 1.000 tấn tôm với doanh thu $ 10.000.000. Một số công ty đã tiến hành một mô hình khép kín nuôi và chế biến sản phẩm đảm bảo vệ sinh và bảo vệ môi trường.
Ngành công nghiệp cũng cho thấy dấu hiệu tích cực như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) chuẩn bị cho xuất khẩu cá tra sang Nga vào tháng tới. Xuất khẩu cá da trơn đã bị gián đoạn vào cuối quý đầu tiên.
Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Lương Lê Phương cho biết xuất khẩu cá da trơn trên thị trường sẽ ưu tiên cho các nhà nhập khẩu có uy tín. Nhập khẩu sẽ được giá ưu đãi và thời gian giao hàng. Ông cho biết việc phân loại sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam cung cấp và kiểm soát chất lượng sản phẩm xuất khẩu của họ sang Nga.
Nguồn: Vnagency.com.vn | 20/05/2010 12:00 SA | Đã ban hành | | Kế hoạch khảo sát địa chấn thềm lục địa | Kế hoạch khảo sát địa chấn thềm lục địa | <p style="text-align: justify;"> </p> <p style="text-align: justify;">Chi cục khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản có nhận được công văn số 1049/UBND-NC ngày 30 tháng 3 năm 2010 về việc thông báo kế hoạch khảo sát địa chấn 2D lô 129-132 thềm lục địa Việt Nam của công ty liên doanh điều hành Vietgazprom.</p>
|
Chi cục khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản có nhận được công văn số 1049/UBND-NC ngày 30 tháng 3 năm 2010 về việc thông báo kế hoạch khảo sát địa chấn 2D lô 129-132 thềm lục địa Việt Nam của công ty liên doanh điều hành Vietgazprom.
Chương trình khảo sát địa chấn 2D sẽ được tiến hành cụ thể như:
- Thời gian khảo sát địa chấn 2D dự kiến được bắt đầu từ tháng 4 năm 2010 và sẽ kết thúc vào cuối tháng 8 năm 2010. Khu Vực khảo sát địa chấn 2D nằm trong phạm vi các lô 129-130-131-132 ngoài khơi thềm lục địa Việt Nam
- Tọa độ khu vực khảo sát địa chấn 2D:
Điểm
|
Tọa độ
|
Vĩ độ Bắc
|
Kinh độ đông
|
A
|
100 30’ 00’’
|
1090 20’ 00’’
|
B
|
100 30’ 00’’
|
1100 30’ 00’’
|
F
|
080 30’ 00’’
|
1100 30’ 00’’
|
G
|
080 30’ 00’’
|
1090 30’ 00’’
|
Để triển khai chương trình địa chấn 2D, Công ty Liên doanh Điều hành “Vietgazprom” sẽ sử dụng 2 tàu khảo sát địa chấn:
1- Tàu địa chấn 2D “Professor Polskov”.
2- Tàu khảo sát địa chấn 2D “Bình Minh 02”.
Trong quá trình khảo sát 2D, mỗi tàu địa chấn sẽ kéo theo 1 cáp thu tín hiệu dài 6km. Để đảm bảo an toàn cho các thiết bị địa chấn, trong quá trình thu tín hiệu, mỗi tàu địa chấn sẽ có 3 đến 5 tàu hộ tống của Việt Nam được sử dụng làm công tác bảo vệ.
Nhằm giúp cho công ty thực hiện tốt kế hoạch khảo sát địa chấn lô 2D thềm lục địa Việt Nam, Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Bến Tre yêu cầu các tàu cá địa phương không được tiến hành hoạt động đánh bắt cá hoặc di chuyển tàu vào khu vực mà các tàu địa chấn và tàu hộ tống đang triển khai công tác thu tín hiệu địa chấn./. | 10/05/2010 12:00 SA | Đã ban hành | | Nguyên nhân gây chết nghêu tại Bến Tre | Nguyên nhân gây chết nghêu tại Bến Tre | <p style="text-align: justify;"> </p> <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/thang5-2010/anh-ngheu-msc.jpg" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;">Hàng năm, cứ vào thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 thì các bãi nghêu ven biển tỉnh Bến Tre lại có hiện tượng nghêu chết, mức độ nghêu chết mỗi năm đều khác nhau. Trước thực trạng trên, nhiều năm nay ngành Thủy sản Bến Tre đã tích cực mời các ngành chức năng, các viện, trường cùng tham gia tìm nguyên nhân gây chết nghêu hàng loạt vào thời điểm trên để từ đó tìm giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có kết luận chính thức nào về hiện tượng trên từ các cơ quan nghiên cứu.</p>
|
Hàng năm, cứ vào thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 thì các bãi nghêu ven biển tỉnh Bến Tre lại có hiện tượng nghêu chết, mức độ nghêu chết mỗi năm đều khác nhau.
Trước thực trạng trên, nhiều năm nay ngành Thủy sản Bến Tre đã tích cực mời các ngành chức năng, các viện, trường cùng tham gia tìm nguyên nhân gây chết nghêu hàng loạt vào thời điểm trên để từ đó tìm giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có kết luận chính thức nào về hiện tượng trên từ các cơ quan nghiên cứu.
|
Khảo sát hiện tượng Nghêu chết. Ảnh: Tác giả
|
Và cứ thế, trong những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 2010 lượng nghêu chết lại tăng nhiều hơn so với các năm trước đây. Trong đợt nghêu chết này, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II đã tiến hành điều tra, khảo sát tại vùng nuôi nghêu của hợp tác xã Bảo Thuận huyện Ba Tri và hợp tác xã Rạng Đông huyện Bình Đại, qua đó đã tiến hành thu 15 mẫu nghêu tại 02 vùng nuôi nghêu này.
Kết quả phân tích tác nhân gây bệnh cho thấy 100% mẫu nghêu thu được đều có sự hiện diện của ký sinh trùng đơn bào nội ký sinh Perkinsus sp đây là loài ký sinh trùng thường gây chết trong điều kiện nhiệt độ và độ mặn cao. Căn cứ theo các tài liệu nghiên cứu trên thế giới và kết quả về dấu hiệu bệnh lý, môi trường, phân lập tác nhân gây bệnh nhóm nghiên cứu bước đầu nhận định đợt nghêu chết vừa qua tại tỉnh Bến Tre là do loại ký sinh trùng này gây ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi cho sự phát triển và gây bệnh của chúng.
Trước khi các cơ quan nghiên cứu đưa ra các giải pháp tích cực nhằm hạn chế thiệt hại đối với nghêu trong thời điểm này, Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Bến Tre đã khuyến cáo các hợp tác xã thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:
- Thường xuyên khảo sát sân bãi để theo dõi tình hình phát triển của nghêu nuôi; theo dõi chặt chẽ tình hình biến động của thời tiết và môi trường nước nhằm sớm phát hiện các biến động bất thường của môi trường và tình hình sức khỏe của nghêu để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Tăng cường công tác kiểm tra và ghi nhận các yếu tố môi trường nhiệt độ, độ mặn, pH… hàng ngày để theo dõi và làm cơ sở dữ liệu cho quản lý, khai thác nghêu trong những năm tiếp theo.
- Đối với nghêu đạt kích cỡ thương phẩm cần có kế hoạch thu hoạch sớm nhằm tránh thiệt hại có thể xảy ra.
- Đối với nghêu nuôi chưa đạt kích cỡ thu hoạch, các HTX cần có kế hoạch chủ động san thưa, không để mật độ quá dày hoặc di chuyển nghêu đến vùng nuôi an toàn hoặc các vùng nuôi có độ mặn phù hợp (≤ 32‰).
Lê Văn Trung – Chi cục NTTS Bến Tre | 06/05/2010 12:00 SA | Đã ban hành | | Nông dân Chợ Lách đốn dừa trồng sầu riêng | Nông dân Chợ Lách đốn dừa trồng sầu riêng | <p style="text-align: justify;"> </p> <table border="0" cellspacing="3" cellpadding="3" align="left"> <tbody> <tr> <td> <div><img src="/PublishingImages/stories/thang5-2010/dsc00037.jpg" border="0" /></div> </td> </tr> </tbody> </table> <p style="text-align: justify;">Anh Phạm Văn Long, 50 tuổi, ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Nghĩa, huyện Chợ Lách có 5000m<sup>2</sup> đất vườn, gồm 500m<sup>2</sup> nhà ở và trước đây trồng 3500m<sup>2</sup> sầu riêng Mongthong, còn một công mà cha mẹ anh đã trồng dừa từ lâu. Hiện nay thu hoạch mỗi tháng trong 20 cây dừa khoảng 150 trái x 4.000 đồng = 600.000 đồng, so với một 1000m<sup>2</sup> đất trồng sầu riêng Mongthong 20 cây sau 8 năm tuổi, mỗi cây cho bình quân 30 trái, mỗi trái 3 Kg, mỗi Kg 22.000 đồng ta có mỗi năm sẽ cho: 20 cây x 30 trái x 3 Kg x 22.000 đồng=39.600.000 đồng.</p>
|
Anh Phạm Văn Long, 50 tuổi, ấp Hòa Thạnh, xã Hòa Nghĩa, huyện Chợ Lách có 5000m2 đất vườn, gồm 500m2 nhà ở và trước đây trồng 3500m2 sầu riêng Mongthong, còn một công mà cha mẹ anh đã trồng dừa từ lâu. Hiện nay thu hoạch mỗi tháng trong 20 cây dừa khoảng 150 trái x 4.000 đồng = 600.000 đồng, so với một 1000m2 đất trồng sầu riêng Mongthong 20 cây sau 8 năm tuổi, mỗi cây cho bình quân 30 trái, mỗi trái 3 Kg, mỗi Kg 22.000 đồng ta có mỗi năm sẽ cho: 20 cây x 30 trái x 3 Kg x 22.000 đồng=39.600.000 đồng.
|
Dừa bị đốn bỏ trồng sầu riêng. Ảnh Tác giả
|
Không đâu! Nghe nói Ông Nguyễn Văn Thặng ngụ cùng ấp Hòa Thành có cây sầu riêng Mongthong 10 tuổi, lúc đầu mùa năm nay bá được giá 32.000 đồng/Kg x 135 trái x 3Kg=12.960.000 đồng(gần 13 triệu đồng).
Vùng cách trên huyện Chợ Lách nước ngọt quanh năm rất thích hợp việc trồng sầu riêng mà trồng dừa là điều phí đất. Như vậy, Anh Phạm Văn Long đốn dừa trồng lại sầu riêng Mongthong là đúng hướng.
Đỗ Văn Công-Sở NN và PTNT | 05/05/2010 12:00 SA | Đã ban hành | | Cồn Cái Gà phát triển nhãn IDOR | Cồn Cái Gà phát triển nhãn IDOR | Trong vòng một tháng trở lại đây, nhiều nhà vườn ở Cồn Cái Gà, xã Long Thới thu hoạch rộ nhãn Idor, bà con rất khấn khởi vì giá bán nhãn Idor khá cao từ 20.000 đ-30.000 đ/kg. Nhãn idor được xem loại cây ăn trái đặc sản ở đây. | Cách nay khoảng 7 năm, nhãn Idor được một vài hộ chọn trồng thay thế cho cây nhãn da bò bị nhiễm bệnh chổi rồng, dần dần cây nhãn idor đã phủ kín 40 ha diện tích cồn. Nhờ nắm bắt kỹ thuật nên nhà vườn có thể xử lý nhãn Idor cho trái rãi vụ. Nhiều nông dân ở đây cho biết, giai đoạn quyết định đến năng suất là biện pháp xử lý cho cây ra hoa, cách làm chủ yếu là tưới gốc và phun thuốc kích thích cho cây, thời tiết cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng ra hoa của cây.
Cây nhãn idor có ưu điểm là tỷ lệ đậu trái cao, ít bị bệnh chổi rồng, trái có độ ngọt thanh, ít nước, cơm ráo và dày. Cây trồng khoảng 3 năm thì cho trái, nếu chăm sóc đúng kỹ thuật cây sẽ phát triển tốt cho năng suất trung bình khoảng 3 tấn/công; so với cây trồng khác giá bán ở mức khá cao, đầu ra ổn định. Để nâng cao giá trị thương phẩm cho trái nhãn Idor, ngành nông nghiệp huyện đã có kế hoạch xây dựng mô hình nhãn Idor đạt tiêu chuẩn VietGAP tại cồn Cái Gà-xã Long Thới. Việt Cường | 08/11/2016 9:00 SA | Đã ban hành | | Kinh nghiệm trồng bưởi da xanh hiệu quả của một nông dân ở xã Sơn Định | Kinh nghiệm trồng bưởi da xanh hiệu quả của một nông dân ở xã Sơn Định | Kinh nghiệm trồng bưởi da xanh hiệu quả của một nông dân ở xã Sơn Định | Vào năm 1997 khi trái chôm chôm bị rớt giá khiến gia đình gặp khó khăn về kinh tế, ông Trần Thiện Chiến ở ấp Sơn Phụng, xã Sơn Định có mua hai nhánh bưởi da xanh trồng thử nghiệm, sau 4 năm cây cho trái sai và có vị rất ngon. Nhận thấy tiềm năng của cây bưởi da xanh với năng suất và hiệu quả không kém các loại cây ăn trái đặc sản khác, ông quyết định chọn cây bưởi da xanh làm hướng phát triển kinh tế của gia đình. Ông tiến hành chiết nhánh bưởi trồng xen trong vườn chôm chôm để che mát, vài năm sau, ông cải tạo vườn trồng chuyên bưởi da xanh trên diện tích 8.000m2.
Trong giai đoạn đầu chưa có kinh nghiệm và còn hạn chế kỹ thuật trong khâu chăm sóc nên khi địa phương tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, ông chủ động đăng ký tham gia. Cũng trong thời gian này, Trường Đại học Cần Thơ chọn vườn bưởi da xanh của ông làm mô hình thí điểm chương trình IBM trên một nửa diện tích, một nửa diện tích còn lại áp dụng phương pháp canh tác truyền thống. Sau 1 năm thực hiện, nhận thấy hiệu quả thiết thực cho lợi nhuận cao, chi phí đầu tư thấp, hạn chế ô nhiễm môi trường, ông mạnh dạn áp dụng chương trình IBM cho toàn bộ diện tích bưởi da xanh của gia đình.
Ông Chiến cho biết, trồng bưởi da xanh, nói dễ thì không dễ, nói khó thì cũng không khó, điều quan trọng là cần phải chọn giống tốt, đấp mô cao, đào mương thoát nước; trong chăm sóc thường xuyên theo dõi quá trình sinh trưởng của cây, mùa nắng quan tâm tưới nưới, tủ gốc giữ ẩm cho cây, cắt tỉa cành tạo tán, mỗi năm bồi gốc 1 lần, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cây, đặc biệt là bón phân chuồng ủ thuốc tri-cô phòng trừ nấm bệnh, sử dụng phân hữu cơ sinh học và N-P-K liều lượng thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của cây. Mặt khác chú trọng phòng trừ bệnh vàng lá gân xanh, vàng lá thối rễ, sâu vẽ bùa, rệp sáp là những dịch bệnh dễ xuất hiện trên cây có múi.
Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, sâu đục trái tấn công mạnh trên vườn bưởi da xanh và gây thiệt hại lớn, làm điêu đứng người trồng bưởi. Để phòng trừ loài sâu hại này, có người dùng biện pháp bao trái, xịt thuốc trừ sâu, riêng ông có một cách rất độc đáo. "Sau khi được tập huấn, biết sâu đục trái là do loài bướm sinh ra, tôi cũng để ý là những cây bưởi ở gần ống khói nhà bếp thì không bị sâu đục trái tấn công, từ đó tôi nghĩ ra cách ung khói trong vườn để xuôi đuổi bướm vào lúc chiều mát, bằng cách dùng lá khô nhúng nước rồi đem đi ung khói, mỗi lần như vậy khoảng vài tiếng đồng hồ, hiệu quả đạt khoảng 90%", ông Chiến cho biết.
Tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình canh tác và tiếp thu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, ông đã thành công khi xử lý cho cây cho trái đạt năng suất và chất lượng tăng dần qua từng mùa vụ. Trong đó bưởi loại một chiếm đa số. Thông thường bưởi da xanh có giá dao động từ 30-50.000đ/kg, bưởi cho thu hoạch quanh năm, mang về khoảng thu nhập ổn định cho gia đình. Hiện nay tuy chỉ còn canh tác trên diện tích 2.000m2 nhưng ông vẫn có lợi nhuận khá cao khoảng 80 triệu đồng/năm sau khi trừ chi phí. Hương tới ông sẽ tiếp tục trồng mới bưởi da xanh thay thế cho các cây già cỗi, giảm năng suất để vườn luôn cho thu hoạch trong những mùa vụ tiếp sau.
Ông Chiến chia sẻ, cây bưởi da xanh là một loại cây trồng khó tính, rất mẫn cảm với thời tiết, sâu bệnh nên đòi hỏi người trồng bưởi phải có tính cần cù, siêng năng, chịu khó học hỏi thì mới có thể thành công. Không chỉ làm giàu cho bản thân, ông còn sẳn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho nông dân ham thích trồng bưởi da xanh trên địa bàn.
Việt Cường | 27/04/2015 9:28 SA | Đã ban hành |
|